Ngày trước nếu khi chạy dọc đại lộ Đông Tây đoạn kênh Tàu Hủ (nhiều người thường gọi là Bến Bình Đông) ta vẫn có thể thấy một số ngôi nhà mang kiến trúc Đông – Tây đặc thù của khu vực này vẫn còn.
Và có lẽ, trong chúng ta rất nhiều người còn nhớ và lưu giữ lại những hình ảnh của khu vực này trước khi đại lộ Đông Tây hình thành. Những ngày ấy, xe cẩu, xe lu đang ra sức nạo vét và trải nhựa hai bên bờ kênh Tàu Hũ, bờ Tây là đường Trần Văn Kiểu quận 6 và bờ Đông là Bến Bình Đông quận 8, để hoàn thành đại lộ.
Cây cầu đầu tiên trên rạch Bến Nghé là cầu Máy Rượu
Và trong vô vàn cảm xúc của kỷ niệm về một thời Sài Gòn xưa, ta thấy tiếc vì các nhà máy xay xát lúa gạo tại khu vực từng được mệnh danh là “bao tử của miền Nam” nay đã không còn. Với sự thuận lợi về đường thủy, có thể tránh được nguy hiểm và tiết kiệm chi phí chuyên chở, phù hợp với nền kinh tế nông nghiệp và phương tiện vận chuyển của các tỉnh miền Tây, cộng với khả năng thu mua và giao thương năng động của người Hoa, nơi đây đã từng chứng kiến những giai đoạn thịnh vượng nhất của việc mua bán và xuất khẩu lúa gạo trong suốt lịch sử 300 năm phát triển Sài Gòn – Chợ Lớn.
Nhắc đến Bến Bình Đông, người Sài Gòn lớn tuổi không ai không nhớ đến các dãy nhà kho, chành (tiếng Hoa gọi chỗ chứa hàng), nhà máy xay xát, mua bán và xuất khẩu lúa gạo của người Hoa. Trước kia, người Hoa thu mua lúa từ các tỉnh miền Tây về đây tập kết, xay xát rồi bày bán tại phố Trần Chánh Chiếu, quận 5. Phố Trần Chánh Chiếu hay chợ Gạo là phố chuyên doanh đầu tiên và lâu đời nhất của TPHCM do người Hoa lập vào khoảng năm 1750. Từ phố này, lúa gạo được xuất khẩu đi hàng chục nước trên thế giới.
Từ Thập niên 1930. Các nhà máy xay dọc theo con kênh. Cây cầu bên phải hình là cầu Máy Rượu thẳng ngay cổng vào Nhà máy xay Bình Tây (và Nhà máy Rượu Bình Tây ở phía sau, không thấy trong hình này). Con kênh phía trước là Kênh Tàu Hủ (Arroyo Chinois), con kênh cong phía trên là Rạch Lò Gốm, với đường chạy dọc bên là đường Bến Lò Gốm:
Hiện nay, lúa gạo được bày bán tại phố Trần Chánh Chiếu được nhập từ nhiều nguồn khác nhau và chuyên chở bằng xe tải vì đường xá thuận tiện hơn, nhanh hơn và chở được nhiều hơn.
Nhắc đến Bến Bình Đông, không thể không nhắc đến kiến trúc đặc thù, kết hợp đường nét Đông Tây của cộng đồng người Hoa tại Việt Nam thời Pháp thuộc, mang đậm dấu ấn của hoạt động kinh tế cũng như giao thoa văn hóa. Khu vực này trước kia do người Hoa làm chủ, nhưng việc xây dựng được thực hiện bởi các nhà thầu Singapore. Kiến trúc được xây theo dạng nhà phố với bề ngang hẹp, nhằm tăng số lượng nhà mặt tiền và nhờ đó mau chóng thu hồi vốn đầu tư xây dựng. Tầng trệt là cơ sở kinh doanh, chành, tầng trên là nhà ở. Tuy nhiên, trang trí lại mang ảnh hưởng phương Tây với các cây cột được xây bằng gạch, lan can bằng sắt, gờ chỉ làm bằng thạch cao hoặc vôi.
Để chừa lộ giới xây dựng đại lộ Đông Tây, một số ngôi nhà cổ, dãy nhà kho và đình Bình An (một trong những ngôi đình lâu đời tại khu vực Sài Gòn Chợ Lớn, được xây dựng năm 1842, thờ Quan Công, được nhiều người đến khấn vái, cầu xin cho việc làm ăn được phát triển và thuận lợi) đã bị gỡ bỏ.
Nếu chỉ nhắc đến giá trị lịch sử kinh tế và kiến trúc mà không nhắc đến giá trị văn hóa “trên bến dưới thuyền” đặc trưng của khu vực này thì quả là thiếu sót. Trong Lịch sử khẩn hoang miền Nam, nhà văn Sơn Nam miêu tả: “Dòng sông sâu rộng, ghe thuyền đậu dài 10 dặm, theo hai con nước lên, nước ròng thuyền bè qua lại chèo chống ca hát, ngày đêm tấp nập, làm chỗ đô hội lưu thông khắp ngả thật là tiện lợi”.
Ghe thuyền không chỉ là phương tiện di chuyển, chuyên chở mà còn là nhà ở, là nơi sinh sống của người dân. Theo nhà văn Sơn Nam, cuộc sống trên sông, ghe thuyền là nhà, bến bãi là nơi mua bán, những đặc tính này đã tạo nên cả một nét văn hóa đặc trưng của người miền Nam và Tây Nam bộ chứ không chỉ là cảnh quan trên bến dưới thuyền đơn thuần
Trước kia, khu vực này rất sầm uất. Tại bãi tập kết trên đường Trần Văn Kiểu đoạn gần kênh Lò Gốm, xe gắn máy và xe đò ra vào tấp nập. Hàng trăm xe gắn máy chở hàng hóa, chủ yếu là hàng khô đóng thùng, chờ đưa xuống tàu về các tỉnh. Đội ngũ xe gắn máy này ra vào như con thoi, chở hàng từ chợ Bình Tây hoặc từ kho ra bến, rồi từ bến ngược lên kho hoặc ra chợ. Hàng hóa từ thành phố về các tỉnh thường là mặt hàng khô. Ngược lại, hàng hóa chở bằng ghe tàu từ miền Tây lên chủ yếu là trái cây, củ quả như dừa, chuối, thơm, bí đỏ, khoai lang, củ sắn. Ghe, thuyền xếp hàng dài dọc bến sông, việc chuyển hàng lên xuống nhộn nhịp.
Ngày ấy, nhộn nhịp và tấp nập giao thương nhất phải kể đến Nhà máy rượu Bình Tây, một trong hai nhà máy rượu lớn tại Sài Gòn khi ấy, cùng với nhà máy rượu Mazet (gần nhà đèn Chợ Quán).
nằm cạnh phía sau nhà máy xay Bình Tây trên Bến Lê Quang Liêm (sau 1975 là Bến Trần Văn Kiểu, nay là đường Võ Văn Kiệt). Hai biệt thự màu trắng phía sau nhà máy rượu là nhà ở cho nhân viên người Pháp, nằm trên đường Phạm Văn Chí.
Từ trên cầu NHÀ MÁY RƯỢU, thấy được bậc thang bằng xi-măng và dốc lên cầu được lót bằng những thanh gổ.Khi lên hết dốc phải quẹo phải chứ không đi thẳng được nữa.
Năm 1945, hai nhà máy rượu lớn tại SG là nhà máy rượu Bình Tây và nhà máy rượu Mazet (gần nhà đèn Chợ Quán), cùng với nhà máy đường Hiệp Hòa là các mục tiêu được chọn để tấn công của máy bay Đồng Minh, nhằm phá hủy nguồn sản xuất cồn của quân Nhật.
Bây giờ, dòng kênh đen ngòm, đầy rác và bùn trước kia đã được nạo vét bớt đen đặc hơn. Các bờ kè được xây bằng đá khang trang. Theo đà phát triển kinh tế, đại lộ Đông Tây được hình thành, người lái xe có thể vi vu trên đường.Chỉ một vài ngôi nhà cũ còn sót lại nhưng ít ra, chúng cho thấy thế hệ sau không phủ nhận sạch trơn thế hệ trước…