4 điều kiện khi lấy vua Bảo Đại của Nam Phương Hoàng hậu – Vị hoàng hậu cuối cùng của chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam

Nam Phương Hoàng Hậu (4 tháng 12 năm 1914 – 16 tháng 9 năm 1963), là Hoàng hậu của Hoàng đế Bảo Đại thuộc triều đại nhà Nguyễn, đồng thời là hoàng hậu cuối cùng của chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam. Bà cùng với Thừa Thiên Cao Hoàng hậu, chính thất của Gia Long và Lệ Thiên Anh Hoàng hậu, chính thất của Tự Đức, là 3 vị Hoàng hậu trong hoàng tộc nhà Nguyễn mang tước vị Hoàng hậu  khi còn sống. Bà cũng là Hoàng hậu duy nhất theo đạo Công giáo trong lịch sử Việt Nam, và cũng là hoàng hậu cuối cùng của triều đại nhà Nguyễn nói riêng và chế độ quân chủ Việt Nam nói chung. Bà đã có công đề xướng việc thành lập và mở các trường học thuộc Dòng Đức Bà (Congrégation de Notre-Dame) tại Việt Nam vào năm 1935. Bà là Hoàng hậu duy nhất của triều Nguyễn được tấn phong sau ngày cưới.

Nam Phương Hoàng Hậu

Nam Phương hoàng hậu tên thật là Nguyễn Hữu Thị Lan, sinh năm 1914 tại Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Sau này ghi trong giấy khai sinh quốc tịch Việt Nam là Nguyễn Hữu Thị Lan, còn tên theo Pháp tịch phải ghi thêm là Jeanne Mariette Thérèse. Bà xuất thân từ một gia đình giàu có.

Cha là Phước Mỹ quận công Nguyễn Hữu Hào. Bà Lan rất xinh đẹp, học giỏi, được gia đình cho sang Pháp du học ở Trường Couvent des Oiseaux cùng thời gian với cựu hoàng Bảo Đại.

Cuộc gặp gỡ định mệnh

Về Việt Nam được gần một năm, khi vua Bảo Đại lên nghỉ mát tại Đà Lạt, và được sự dàn xếp của vị Toàn Quyền Pháp Pasquier và viên Đốc lý Darles (Thị Trưởng) Đà Lạt, trong một buổi dạ tiệc tại khách sạn La Palace tại Đà Lạt do Toàn quyền Đông Dương, vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kỳ Jean François Eugène Charles và viên Đốc lý thành phố sắp đặt, Nguyễn Hữu Thị Lan và Bảo Đại đã gặp nhau.

Vua Bảo Đại

Vua Bảo Đại cho biết ông đã gặp Nam Phương Hoàng Hậu ở Đà Lạt, chứ không phải ở trên tầu, ông đã gặp vào cuối năm 1932.:

“Vào dịp cuối năm, tôi có lưu lại vài ngày ở Đà Lạt cùng với Toàn Quyền Pasquier, trong dịp gặp ông này ở phòng khách, khách sạn Langbian Palace, ông có giới thiệu một cô gái trẻ là bạn bè của bà Charles, cô Marie Thérèse Nguyễn Hữu Hào, cô thuộc một gia đình điền chủ giàu có ở xứ Nam Kỳ. Cô cũng là người Công giáo như cha mẹ và vừa học hết chương trình học của cô ở trường Oiseaux, bên Pháp. Cô ấy 18 tuổi.”

Hoàng hậu Nam Phương

Hoàng hậu Nam Phương cũng nhắc lại:

“Hôm đó ông Darle, Đốc Lý thành phố Đà Lạt gởi giấy mời cậu Lê Phát An tôi và tôi đến dự dạ tiệc ở Hôtel Palace. Tôi không muốn đi nhưng cậu An tôi năn nỉ và hứa với tôi là chỉ đến tham dự một chút và vái chào nhà Vua xong là về nên tôi phải đi một cách miễn cưỡng và tôi cũng chỉ trang điểm sơ sài và chỉ mặc cái áo dài bằng lụa đen mua bên Pháp thôi. Chúng tôi đến trễ nên buổi tiệc đã bắt đầu từ lâu. Cậu tôi kéo ghế định ngồi ngoài hiên thì ông Darle trông thấy, ông ta chạy đến chào chúng tôi rồi nắm tay cậu tôi kéo chúng tôi vô nhà. Vừa đi ông vừa nói: “Ông và cô phải đến bái yết Hoàng thượng mới được”. Khi cánh cửa phòng khách vừa mở, tôi thấy vua Bảo Đại ngồi trên chiếc ghế bành chính giữa nhà. Ông Darle bước tới bên cạnh Vua rồi nghiêng mình cúi chào và kính cẩn nói:

-Votre Majesté, Monsieur Lê Phát An et sa nièce, Mademoiselle Marie Thérèse. (Tâu Hoàng thượng, đây là ông Lê Phát An và người cháu gái, cô Marie Thérèse)

Nhờ các nữ tu ở trường Couvent des Oiseaux từng chỉ dạy nên tôi biết phải làm gì để tỏ lòng tôn kính đối với bậc Quân Vương, vì vậy tôi đã không ngần ngại đến trước mặt Hoàng Đế, quỳ một gối và cúi đầu sát nền nhà cho đến khi thấy bàn tay cậu tôi kéo tôi dậy, tôi mới đứng lên. Vua gật đầu chào tôi đúng lúc tiếng nhạc vừa trỗi theo nhịp điệu Tango, Ngài ngỏ lời mời và dìu tôi ra sàn nhảy rồi chúng tôi bắt đầu nói chuyện. Về sau, khi đã trở thành vợ chồng, Ngài mới cho tôi biết hôm đó Ngài rất chú ý cách phục sức đơn sơ của tôi. Tôi nghĩ rằng tôi được nhà Vua lưu ý một phần do trong suốt buổi dạ tiệc chỉ có tôi là người phụ nữ Việt Nam duy nhất nói tiếng Pháp và theo hành lễ đúng cung cách lễ nghi Âu tây đối với Ngài”.

Về cuộc tình duyên đó, Bảo Đại có viết trong cuốn Con rồng Việt Nam:

“Sau lần hội ngộ đầu tiên ấy, thỉnh thoảng chúng tôi lại gặp nhau để trao đổi tâm tình. Marie Thérèse thường nhắc đến những kỉ niệm ở trường Couvent des Oiseaux một cách thích thú. Cũng như tôi, Marie Thérèse rất thích thể thao và âm nhạc. Nàng có vẻ đẹp dịu dàng của người miền Nam pha một chút Tây phương. Do vậy mà tôi đã chọn từ kép Nam Phương để đặt danh hiệu cho nàng. Các vị Tiên Đế của tôi cũng thường hướng về người đàn bà miền Nam. Nếu tôi nhớ không sai thì trước Hoàng hậu Nam Phương, có đến bảy phụ nữ miền Nam đã từng là chủ nhân của Hoàng thành Huế. Khi chọn phụ nữ miền Nam làm vợ, hình như đức Tiên Đế và tôi đều nghĩ rằng trước kia đức Thế Tổ Cao Hoàng đã được nhân dân miền Nam yểm trợ trong việc khôi phục giang sơn. Chính đó là sự ràng buộc tình cảm giữa Hoàng triều Huế với người dân miền Nam”.

Sau vài dịp gặp gỡ: “Một tình cảm êm dịu đã nảy sinh giữa chúng tôi. Chúng tôi đã quyết định gặp lại nhau”. “Lan có một vẻ đẹp thùy mị của người con gái miền Nam, hiền lành và quyến rũ làm tôi say mê”.

4 điều kiện trước ngày cưới

Ngày 20/4/1934 hôn lễ của vị hoàng đế cuối cùng được cử hành rất trọng thể với người con gái đất Gò Công.

Đám cưới vua Bảo Đại 16-20/4/1934

Ngay sau ngày cưới, Hoàng đế Bảo Đại liền tấn phong Vương phi Nguyễn Hữu Thị Lan ngôi Hoàng hậu, một điều mà trước đây chưa từng có đối với triều đình nhà Nguyễn, vì các bà thái hậu chỉ được tấn phong sau khi vị hoàng đế chồng bà đã băng hà. Do khi Hoàng đế Bảo Đại ngỏ ý cầu hôn, bà đã đưa ra 4 điều kiện và nhà vua đã chấp nhận:

1 – Phải được tấn phong Hoàng hậu ngay trong ngày cưới.

2 – Được giữ nguyên đạo Thiên chúa. Các con sinh ra đều được rửa tội và giữ đạo.

3 – Bảo Đại được tự do giữ đạo cũ của mình là Phật giáo.

4 – Phải được tòa thánh Vantican cho phép đặc biệt hai người lấy nhau và giữ hai tôn giáo khác nhau, không ai bắt buộc ai về tôn giáo.

Một tờ báo Annam tiết lộ tin vào năm 1934 là Bảo Đại kết hôn với một cô gái theo đạo. Cả Hoàng gia rúng động và phủ quyết. Tôn Thất Đàn dự tính làm một thỉnh nguyện thư chung của tất cả quan lại cao cấp phản đối việc này, còn nghĩ đến giải pháp bắt Nam Phương phải bỏ đạo Công giáo theo đạo Phật.

Báo Annam đưa tin về đám cưới của vua Bảo Đại

Vì vậy cuộc hôn nhân giữa Bảo Đại và Nguyễn Hữu Thị Lan gặp phải rất nhiều phản đối. Trước Hoàng Tộc Triều Nguyễn, Bảo Đại đã nói: “Trẫm cưới vợ cho trẫm đâu phải cưới cho cụ Tôn Thất Hân và Triều đình.”

Theo cụ Phạm Khắc Hòe, cựu Đổng lý Ngự tiền Văn phòng của Bảo Đại, năm 1983 đã viết trong hồi ký Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc, trong đó cũng có đoạn nói về cuộc hôn nhân của Bảo Đại:

“Trong cuộc kết hôn giữa Bảo Đại với Nguyễn Hữu Thị Lan lý trí nặng hơn tình cảm nhiều. Cô Lan lấy Bảo Đại chủ yếu là để lên ngôi Hoàng hậu. Bảo Đại lấy cô Lan chủ yếu là để đào mỏ. Về mặt tình cảm nếu có thì cũng chỉ là bề ngoài: hai người đều khoẻ mạnh, yêu thể thao và quen sống lối phương Tây. Còn về tính tình, tâm tư thì hầu như trái ngược nhau. Bảo Đại nông cạn, ngây thơ, nhu nhược, thích ăn chơi hơn là quyền bính. Ông ta có thể phục thiện nhưng rất dễ bị bọn cơ hội lợi dụng. Trái lại, Nam Phương là người kín đáo, trầm tĩnh, sâu sắc, có cá tính, có đầu óc suy nghĩ, thích đọc sách, nghiên cứu hơn là ăn chơi … thích uy quyền và có nhiều tham vọng chính trị…”

Từ Hoàng Hậu một nước trở về lại cuộc sống thường dân

Tương truyền, xưa kia, Bảo Đại là vị vua đa tình và đam mê sắc dục đến mức nghiện ngập. Để cưới được Nam Phương, ông đã buộc phải chấp nhận bãi bỏ hậu cung, tuân thủ chế độ một vợ một chồng.

Quả là ngoài Nam Phương, chẳng có thêm phi tần nào được đưa vào nội, thế nhưng bồ bịch, tình nhân của ông thì không đếm hết.

Ngoài những người tình gắn bó sâu đậm nhất như bà Phi Ánh, bà Mộng Điệp, Hoàng Tiểu Lan, Monique Marie Eugene Baudo…, nhà vua có vô số người tình ngắn hạn và một đêm.

Với một người chồng như thế, Nam Phương hoàng hậu chắc hẳn phải đau khổ tột bậc. Nhưng là một hoàng hậu, một cô gái được giáo dục kỹ lưỡng, lại đầy lòng kiêu hãnh, bà không thể ầm ĩ khóc lóc, hay chạy theo vua mong chiếm lại trái tim. Bà còn nhiệm vụ đối với mẹ chồng, với nội cung, còn 5 đứa con để nuôi dạy.

Hoàng hậu Nam Phương với 5 người con tại lâu đài Thorenc (thành phố Cannes, Pháp), khoảng 1950.
Hoàng Thái tử Bảo Long qua đời ngày 28-7-2007, hưởng thọ 71 tuổi, qua đời sau thân phụ ông đúng 10 năm (1997-2007). Hoàng tử Bảo Thăng qua đời ngày 15-3-2017, sau người anh 10 năm, hưởng thọ 74 tuổi.

Nam Phương Hoàng hậu chăm sóc dạy dỗ con cái rất chu đáo. Bà mời các thầy nổi tiếng vào điện Kiến Trung (nơi bà và Hoàng đế chung sống) dạy chữ Hán và văn minh cả Đông – Tây kim cổ.

Một bà hoàng rất kính trọng các nhà giáo, nhiều lần bà theo xe đến trường Đồng Khánh để gặp gỡ các thầy cô giáo. Ngoài việc giáo dục con cái, bà cùng Bộ Lễ lo lễ tiết, cúng kỵ trong cung và luôn đến vấn an các thái hậu (bà nội và mẹ vua) thể hiện tính chất hiếu thảo của một nàng dâu.

Cách mạng Tháng Tám thành công, Vua Bảo Đại thoái vị và trao lại ấn, kiếm cho Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa. Ngày 30/8/1945, Vua Bảo Đại trở thành công dân Vĩnh Thụy và được Hồ Chủ tịch mời ra Hà Nội làm cố vấn cho Chính phủ.

Nam Phương Hoàng hậu đưa các con rời khỏi Tử Cấm Thành về sống ở cung An Định bên bờ sông An Cựu. Trong điều kiện khó khăn của đất nước sau ngày giành được độc lập, Nam Phương Hoàng hậu tích cực tham gia nhiều phong trào hoạt động yêu nước.

Bà là người đầu tiên đem trang sức vàng bạc đóng góp cho “Tuần lễ vàng” sau đó nhiều người cũng theo bà đóng góp tiền của ủng hộ cách mạng mua vũ khí chống thực dân Pháp. Bà còn viết một thông điệp kêu gọi bạn bè và phụ nữ thế giới đấu tranh chống lại việc quân thực dân Pháp trở lại chiếm đóng Nam Bộ cuối năm 1945.

“Nước Việt Nam đã được giải phóng khỏi ách nô lệ của đế quốc Pháp và Nhật. Khi thoái vị, chồng tôi, cựu hoàng Bảo Đại đã tuyên bố “Thà làm dân một nước độc lập còn hơn làm vua một nước nô lệ”, bản thân tôi cũng đã từ bỏ không thương tiếc những đặc quyền của một bà hoàng hậu, đoàn kết cùng chị em phụ nữ để giữ gìn nền độc lập thiêng liêng của nước nhà”.

Sau đó chiến tranh tiếp diễn, Nam Phương hoàng hậu cùng mẹ chồng và các con phải di tản đến ở trong tu viện dòng Chúa cứu thế, rồi đến Ngân hàng Đông Dương, rồi di tản sang Pháp. Bà mất ngày 14/9/1963 tại Pháp, hưởng thọ 49 tuổi.

Linh cữu của bà Nam Phương được an táng ngay nghĩa trang Công giáo tại Chabrignac. Trên mộ của bà có tấm bia ghi những dòng chữ:

Chữ Hán:

大南南芳皇后之陵

ĐẠI NAM NAM PHƯƠNG HOÀNG HẬU CHI LĂNG

(Lăng của Hoàng hậu Nam Phương nước Đại Nam)

Chữ Pháp:

ICI REPOSE L’IMPÉRATRICE D’ANNAM NÉE MARIE THÉRÈSE NGUYEN HUU THI LAN

(Đây là nơi an nghỉ của Hoàng hậu nước An Nam, nhũ danh Maria Têrêsa Nguyễn Hữu Thị Lan)

Dưới chân mộ còn có tấm bảng khắc chữ Pháp:

ICI REPOSE L’IMPÉRATRICE NAM PHUONG NÉE JEANNE MARIETTE NGUYEN HUU HAO

(Đây là nơi an nghỉ của Hoàng hậu Nam Phương, nhũ danh Jeanne Mariette Nguyễn Hữu Hào)

Bia mộ của Nam Phương Hoàng hậu trên đất Pháp

 

Viết một bình luận