Chống nạn tham nhũng – Đại Việt bước vào thời kỳ toàn thịnh

Trong lịch sử dân tộc ta, có rất nhiều đời vua nghiêm khắc trong việc chấn chỉnh nề nếp triều đình, trong đó phải kể đến đời vua Lê Thánh Tông với bộ luật Hồng Đức và dưới thời nhà Nguyễn với bộ luật Gia Long, nhấn mạnh việc chống tham nhũng trong quan lại. Nhưng đặc biệt nhất vẫn là vua Lê Thánh Tông khi được ghi nhận là thời kỳ “ngủ đêm mọi nhà không phải đóng cửa”. 

Vua Lê Thánh Tông giúp Đại Việt trở nên thịnh trị

Ngày 18 tháng 6 âm lịch năm 1460, Gia vương Lê Tư Thành (tên thật của vua Lê Thánh Tông) lên ngôi, thời điểm này đất nước chìm sâu vào quốc nạn tham nhũng, các tướng sĩ chỉ chăm chăm hưởng lạc mà không lo lắng gì cho dân chúng; các quan lại thì chia bè chia cánh và tham nhũng; chỉ có người thì chìm trong đói khổ lầm than. Vua Lê Thánh Tông nhìn nhận rằng vấn nạn tham nhũng chính là nguyên nhân lớn nhất cần phải triệt tiêu ngay lập tức.

Cũng chính vì điều này mà vua Lê Thánh Tông đã quyết định bổ sung và hoàn thiện thêm bộ luật Hồng Đức, nhằm tăng cường sức mạnh để chống lại vấn nạn tham nhũng cho bộ luật này. Việc tham nhũng dưới thời vua Lê Thánh Tông được tiến hành rất triệt để và sát sau, bắt đầu từ những quan to trong triều cho đến những quan lại địa phương. Trong 722 điều được ghi nhận trong bộ luật Hồng Đức thì đã có trên 40 điều đề cập đến vấn nạn nan giải này. 

Bộ luật Hồng Đức dưới triều Hậu Lê

Điển hình là điều 138 của bộ luật có quy định một cách rõ ràng như sau: “Quan lại mà tham nhũng, nhận hối lộ, làm sai phép nước thì bị phạt: Tham ô từ 1 đến 9 quan tiền, bị cách chức. Từ 10 đến 19 quan bị đánh trượng, đi đày. Từ 20 quan trở lên, bị chém. Các ngươi ăn lễ từ 1 đến 9 quan, phải phạt 50 quan. Từ 10 đến 19 quan, phạt từ 60 đến 100 quan. Từ 20 quan trở lên, phạt tội làm phu. Của hối lộ bỏ vào kho một phần, một phần trả lại chủ”. 

Việc xử phạt không phân biệt giữa người giàu kẻ hèn, cũng chẳng phân biệt chức cao hay vọng trọng trong triều đình, mọi hành vi vi phạm sẽ được xử phạt ngang nhau. Luật Hồng Đức còn cho thấy mức độ nghiêm khắc của pháp luật ngày xưa thông qua ví dụ, chỉ cần tham ô một quan tiền cũng “tước mũ ô sa” (mất chức), từ 20 quan tiền trở lên sẽ bị tử hình. 

Sử sách Việt Nam có ghi nhận lại một câu chuyện vị quan triều đình phạm tội tham ô bị cáo buộc vào tội “Hình” – Lê Bô. Chuyện là có một viên quan tên là Trần Phong đã xin Lê Bô nộp tiền chuộc thay vì phải chịu tội “Hình”, nhưng vua Lê Thánh Tông lại cho rằng chỉ cần phạm tội rồi dùng tiền chuộc để giảm án thì người giàu có chăng chẳng bao giờ chịu tội, chỉ có những người nghèo không tiền xoay sở mới phải chịu nhục hình hay sao? Và Lê Thánh Tông cho rằng Trần Phong đề xuất như thế chính là trái với phép tắc của tổ tông nên quyết định trị tội luôn cả ông. 

Vua Lê Thánh Tông có chủ trương rất rõ ràng và kiên định trong việc chống tham nhũng và chỉ trọng dụng những bậc hiền tài, loại trừ hoàn toàn những kẻ xu nịnh ra khỏi bộ máy chính quyền. Thế nên những quan chức trước đó chỉ lo nịnh bợ, dùng tiền để tiến thân hoàn toàn không có đất dụng võ. Tham nhũng tàn phá đất nước cũng nhanh chóng được tiêu trừ và dẹp bỏ hoàn toàn. Những quan chức thanh liêm, thực sự thực tài và một lòng chăm lo, phục vụ cho dân đều được trọng dụng, thậm chí những người trước đó bị hàm oan cũng nhanh chóng được minh oan và phục chức. Ví dụ như vụ án “Lệ Chi Viên” đã khiến Nguyễn trãi cùng gia tộc bị diệt, cuối cùng cũng được giải oan trong thời gian này. Cũng nhờ điều này mà những bậc hiền tài đã chuyên tâm mà phục vụ cho dân chúng, không còn những “cặn bã” trong bộ máy triều đình, người dân cũng nhờ đó mà có được cuộc sống yên ổn. 

Dưới thời vua Lê Thánh Tông phải nói là thời kỳ hưng thịnh của nhà Hậu Lê nói riêng và chế độ phong kiến nói chung với tên gọi là Hồng Đức Thịnh Thế. Có rất nhiều bậc hiền tài đứng ra giúp vua trị nước. Nghe phong phanh dân chúng đồn rằng có ông quan tên Vũ Tự rất thanh liêm, không hề vì tiền tài mà xử án hàm oan nên vua quyết định thử xem thực hư tin đồn là như thế nào. Ông biết Vũ Tự vừa xử án cho một người thắng kiện, liền bí mật mang một mâm lễ vật vô cùng quý giá, đưa cho người này đích thân mang đến cho Vũ Tự hàm ý hậu tạ. Người này nghe lời, vào lúc đêm khuya đã mang theo lễ vật tới để “biếu tặng”.

– Vũ Tự nói ngay: “Anh có biết ta là ai? Việc xét xử là theo luật vua ban, anh cho ta là người thế nào mà dám làm chuyện phi pháp này?”

– Người đó đáp: “Bẩm thượng quan, tập tục là thế, đây là tấm lòng thành tri ân…”

– Vũ Tự lại nói tiếp: “Ta há phải theo tập tục quái gở này để chịu ô danh như những kẻ tham lam khác hay sao?”

Nói xong thì cho giai nhân đuổi người này về, và cũng từ đó mà vua Lê Thánh Tông trọng thưởng cho Vũ Tự và người người biết đến ông với cái danh “liêm tiết”. 

Sử sách thời đại này đã ghi nhận lại, dưới triều đại của vua Lê Thánh Tông – “ngủ đêm mọi nhà không phải đóng cửa, hầu như không có trộm cắp”. Dân gian cũng truyền tai nhau câu nói rằng: 

“Đời vua Thái Tổ, Thánh Tông

Thóc lúa đầy đồng, chẳng mất mát chi.”

Lật khắp những phần về “Thánh Tông Thuần Hoàng Đế” ở “Kỷ nhà Lê” trong quyển “Đại Việt Sử ký toàn thư”, chúng ta có thể dễ dàng nhìn thấy rằng vua Lê Thánh Tông đã ban ra rất nhiều luật lệ có liên quan đến vấn nạn tham nhũng, thậm chí khi các quan tiến cử người mà đánh giá sai nhân cách của người được tiến cử cũng bị xử phạt một cách nghiêm khắc. 

Nhà Nguyễn cũng khá nghiêm khắc với bộ luật Gia Long

Dưới thời nhà Nguyễn, vấn nạn tham nhũng cũng diễn ra và cũng bị trừng phạt khá nghiêm khắc. Trong bộ luật Gia Long, có tổng cộng 400 điều luật thì đã có đến 79 điều liên quan đến việc trị tội tham nhũng. Đặc biệt, trong điều 31 quy định rằng, khi những quan lại nhận hối lộ đều sẽ phải chịu phạt, mức phạt thấp nhất là 70 đại tượng, còn cao nhất là ban chết bằng hình thức treo cổ. 

Điều 111 trong bộ luật Gia Long có quy định rõ ràng rằng: “Quan lại dùng uy thế (chức vụ) vô cớ bắt trói người và tra khảo họ nơi tư gia (không kể có thương tích hay không thương tích) thì tăng hơn người thường hai bậc tội. Nếu nạn nhân chết, người ấy bị xử treo cổ.”

Năm 1816, Đặng Trần Thương là thượng thư bộ binh đã bị xét xử. Bởi tổng thời gian làm quan ở Bắc Thành, ông đã nhiều lần tham ô tiền thuế điền và ao đầm của người dân, làm nhũng nhiễu triều đình và hiển nhiên ông bị khép vào tội tử hình và tịch biên toàn bộ tài sản. Đến tháng 5 năm 1823, có một ông quan làm việc ở Phủ Nội vụ, tên là Lý Hữu Diệm cả gan lấy trộm hơn một lạng vàng và bị phát hiện, sau đó ông đã bị ra giữa chợ Đông Ba xét xử và kết cùng là xử chém trước sự chứng kiến của toàn dân. Lại có một vụ án khác vào tháng 11 năm 1831, Tu vụ Nội vụ phủ Nguyễn Đức Tuyên đã ăn chặn phần nhựa thơm, rồi lấy mật trộn cùng với nhau để từ ít thành ra nhiều. Những tưởng an toàn không ai phát hiện, nhưng “lưới thưa không thể che mắt thánh” gian dối sẽ bị phát hiện, đáng lẽ là bị xử tử và chặt tay treo ở kho. Nhưng vì muốn răn đe nghiêm khắc hơn nên vua Minh Mạng đã ra lệnh: “Chặt một bàn tay thủ phạm Nguyễn Đức Tuyên đem treo, xóa tên trong sổ làm quan, để lại cho nó cái đầu, khiến nó suốt đời hối hận”.

Bộ luật Gia Long hay còn gọi là Hoàng Việt luật lệ được ban hành thời đầu nhà Nguyễn

Dưới thời vua Tự Đức, có ông quan tên là Vũ Đình nổi tiếng tham liêm chính trực. Một hôm nọ, ông phát hiện người coi kho lấy trộm một ít tiền để lén đem ra ngoài uống rượu. Số tiền tuy chẳng đáng là bao nhưng khi lọt đến tai của vua Tự Đức, xem cáo trạng và phê rằng:

“Nhất nhật nhất tiền,

Thiên nhật thiên tiền.

Thắng cứ mộc đoan,

Thủy trích thạch xuyên.

Tội bất dung tru,

Lý ưng xử trảm.

Tạm dịch:

Một ngày một đồng,

Ngàn ngày ngàn đồng.

Dây cưa đứt gỗ,

Nước giọt thủng đá.

Tội không dung tha,

Lệnh truyền xử chém”

Phải nói là những quan tham nhũng dưới thời nhà Nguyễn đều bị tịch biên tài sản, sau đó thì đem ra xử chém trước toàn dân nhằm thị uy, vậy nên các quan hầu hết đều rất sợ hãi mà ngoan ngoãn phần nhiều, không dám “đụng” vô tiền của dân chúng. 

*****

Việc chống tham nhũng của vua Lê Thánh Tông cũng như những vua thời nhà Nguyễn thật đáng học hỏi, nhất là trong thời buổi hiện nay, khi xã hội đang chìm ngập trong sự tham ô tiền của, người khổ sau cùng chỉ có dân chúng. Nhưng nếu chỉ lặp lại cách dùng cũ như thời vua Lê Thánh Tông hoặc thời nhà Nguyễn cho vấn nạn chống tham nhũng thì thật sự chưa đủ. Trong thời buổi hiện đại thì luật pháp hiện đại cũng có phần kiện toàn hơn thời xưa, nhưng chẳng hiểu sao trộm cắp, tham nhũng, chém giết,…vẫn xảy ra vô số, chẳng thể nào ngăn chặn được. Có lẽ bởi vì những kẻ làm quan, một khi nắm trong tay quyền lực thì luật pháp dù có kiện toàn đến mấy cũng chẳng thể cản ngăn được họ một cách hoàn toàn. Nguyên nhân gốc rễ vẫn là ở nhân cách và đạo đức của người làm quan, của người nắm giữ chức vụ. 

Khổng Tử đã từng nói thế nào nhỉ: “Dùng chính lệnh để dẫn dắt dân, dùng hình phạt để bắt dân vào khuôn phép, dân tránh khỏi tội nhưng không biết hổ thẹn. Dùng đạo đức để dẫn dắt dân, dùng lễ giáo để đặt dân vào khuôn phép, dân biết hổ thẹn mà lại theo đường chính.” 

Còn riêng về Lão Tử thì bàn rằng: “Pháp lệnh càng tăng trộm cắp càng nhiều.” 

Luật pháp ngày càng phức tạp, những điều lệ đặt ra cũng ngày càng nghiêm ngặt hơn, đồng nghĩa với việc vấn đề đạo đức trong xã hội đang ngày càng xuống thấp. Ở thời điểm hiện tại, nếu không thể tập trung vào sự thăng đề của đao đức thì chỉ có thể dùng hình pháp ngăn chặn tạm thời để giúp kéo dài sự tồn tại của một chế độ xã hội mà thôi! 

Muốn tiêu diệt được tận gốc những vấn nạn xã hội, điển hình như tham nhũng thì buộc cả dân và quan đều phải tu đức, mà muốn làm được như vậy thì phải bắt đầu từ giáo dục. Phải làm cách nào để các em học sinh học được nhân cách, biết cách trở thành “người”, trở thành một công dân tử tế, trở thành một vị quan “thanh liêm và chính trực”, thực sự phục vụ cho dân.

Viết một bình luận