Giai thoại về Đoàn Đình Duyệt – Một trong Tứ trụ triều đình nhà Nguyễn cùng vụ án 100 năm trước 

Đoàn Đình Duyệt (1862 – 1929) còn có tên là Đoàn Đình Nhàn, hiệu là Đức Khê, tên thụy là Văn Ý, Nam tước, Đại thần Cơ mật Viện, Thượng thư Bộ Công kiêm Bộ Binh, là một trong Tứ trụ triều đình Nhà Nguyễn, thời Vua Khải Định (1916-1925).

Vua Khải Định và các quan đại thần “tứ trụ triều đình” – Hình chụp khoảng 1916-1925. Từ trái qua là các ông Hồ Đắc Trung, Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài và Đoàn Đình Duyệt.

Xuất thân trong gia đình nông dân nghèo

Đoàn Đình Duyệt sinh năm 1862 trong một gia đình nông dân nghèo tại xã Đào Lãng, huyện Vĩnh Lại, tỉnh Hải Dương, nay là thôn Đào Lạng, xã Văn Hội, huyện Ninh Giang, tỉnh Hải Dương. Ngay từ nhỏ, Đoàn Đình Duyệt đã bộc lộ tư chất thông minh, nhanh nhẹn, hoạt bát, chăm chỉ. Cha mất sớm, Đoàn Đình Duyệt phải ở với bác ruột, chăn trâu, cắt cỏ, tham gia công việc đồng áng. Một lần, để trâu ăn lúa, cậu bé Duyệt bị đánh đòn, đành bỏ nhà ra đi, vào Bến Trại (thuộc xã Tiền Phong, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương) rồi lên thuyền theo dòng sông Luộc. Sau đó Đoàn Đình Duyệt gặp được người tốt đón về nuôi, cho ăn học đến khi trưởng thành.

Con đường quan trường

Vào năm thứ 1 triều Đồng Khánh (1885), ông Đoàn Đình Duyệt bắt đầu sự nghiệp hành chính, vào ngạch nhà nước tại chính quyền tỉnh Nghệ An, ba năm sau lên chức Kinh lịch, hết thời gian tập sự, được giao chức Tri huyện và Tri phủ.

Tháng 10 năm Quý Mão (1903), ông làm Thương biện tỉnh Nghệ An sung Đốc biện đường bộ; Tháng 12 năm Đinh Mùi (1908) làm Bố chánh tỉnh Nghệ An. Đến tháng 10 năm Canh Tuất (1910) từ thay quyền Tổng đốc Lãnh Tuần phủ Quảng Ngãi, ông được thăng quyền Lãnh Tổng đốc An Tĩnh (Nghệ An và Hà Tĩnh). Tháng 6 năm Ất Mão (1915) được thăng chức Tổng đốc Bình Phú (Bình Định và Phú Yên).

Sau 31 năm làm việc với các chức vụ nói trên tại địa phương, năm Duy Tân thứ 10 (1916), tháng 2, ông được điều về Huế thay quyền Hiệp tá Đại học sĩ, thăng chức Thượng thư Bộ Hộ (Bộ Tài chính), sung làm Phụ chính Đại thần.

Ông Đoàn Đình Duyệt, Thượng thư Bộ Công

Đến tháng 4 năm Bính Thìn (1916), vua Duy Tân bị phế, vua Khải Định lên ngôi đã lớn tuổi nên không cần hội đồng Phụ chính, ông giữ chức Thượng thư Bộ Hộ, đến tháng 8 thì sung Cơ mật viện Đại thần, tấn phong tước Ninh Lãng nam.

Vua Khải Định & “Tứ Trụ Triều Đình”. Từ trái qua: Tôn Thất Hân (Viện trưởng Viện Cơ Mật), Nguyễn Hữu Bài (Thượng thư Bộ Công & Bộ Binh), Hồ Đắc Trung (Thượng thư Bộ Học), và Đoàn Đình Duyệt (Thượng thư Bộ Lễ).

Tháng 2 nhuận năm Đinh Tỵ (1917) ông chính thức nhậm chức Hiệp tá Đại học sĩ, điều làm Thượng thư Bộ Công, kiêm Bộ Binh, kiêm quản Đô sát viện, vẫn giữ vị trí Cơ mật viện Đại thần. Đến tháng 7 năm Tân Dậu (tức tháng 8 năm 1921) ông bị giáng 2 cấp bậc (xuống Tuần phủ), thu hồi tước Nam và cho về hưu vì phạm tội.

Đến năm Khải Định thứ 9, nhân dịp Tứ tuần Đại khánh của vua Khải Định (tháng 9 năm 1924), ông đã được khôi phục chức tước cũ (Hiệp tá Đại học sĩ, Thượng thư Bộ Công, Ninh Lãng nam) đồng nghĩa với việc ông được tăng mức hưu bổng.

Ngày 31 tháng 01 năm 1929, ông qua đời tại Ninh Giang, tỉnh Hải Dương.

Những đóng góp của Đoàn Đình Duyệt

Nam tước, Đại thần Đoàn Đoàn Đình Duyệt có nhiều đề xuất với Nhà vua trong việc thực thi các chính sách nhằm phát triển kinh tế, xã hội đất nước thời bấy giờ, như:

“…Điều trần về việc thân định giáo điều, chỉnh sửa phong tục; Mua gạo để đề phòng chẩn tế cứu đói cho dân; Tâu trình về việc trù tính việc chẩn cấp cứu đói cho dân Thanh Hóa; Mối lợi khi mở một đường sông để tránh được nỗi khổ cho dân không bị hạn hán bởi thiếu nước ở Nghệ An; Tâu xin về việc giá gạo ở Bắc kỳ rất rẻ vì thiếu tiền, kiến nghị xin đúc thêm tiền đồng để gia tăng việc mậu dịch; Tâu xin đặt trường giảng dạy, nghiên cứu thuốc Nam, theo ông: ” Cũng nên tự ta trồng trọt, thí nghiệm dược phẩm thì lâu ngày có thể tinh tường”.

Ông Đoàn Đình Duyệt, Thượng thư Bộ Hộ (bộ tài chính) (1916-17), và Bộ Công (1917-21) triều Khải Định

Với quê hương: Ông cho tiền, thuê thợ làm “đường chân tre” để chống úng lụt, cho đặt guồng nước có ngựa kéo để chống hạn trên cánh đồng Ba Tổng; Xây dựng cống Cổ ngựa tại Văn Giang, xã Văn hội; Xây dựng đình, chùa tại thôn Đào Lạng; Trùng tu lại các đền chùa nổi tiếng trong huyện Ninh Giang, như: Đền Tranh (xã Đồng Tâm), Chùa Trông (xã Hưng Long) và Đàn Thiện (xã Thanh Giang, huyện Thanh Miện). Cả ba di tích này đã được Nhà nước ta xếp hạng Di tích Lịch sử Văn hóa cấp Quốc gia từ lâu và đang phát huy giá trị rất tích cực trong đời sống văn hóa của nhân dân địa phương.

Tuy nhiên khi nhắc về Đoàn Đình Duyệt các nhà nghiên cứu sử học và hậu duệ của ông không chỉ đã làm sáng tỏ cuộc đời, sự nghiệp của một vị đại quan ‘văn võ toàn tài’, đức độ, yêu nước, thương dân, có nhiều công lao đóng góp với đất nước, quê hương; mà bên cạnh đó còn là vụ án hơn 100 năm trước của Đoàn Đình Duyệt

 Vụ án Đoàn Đình Duyệt

Năm Khải Định thứ 6 tháng 7/Tân Dậu (tháng 8/1921) có người dâng một cuốn sách của Hiệp sĩ Trung Hoa Lương Khải Siêu, dòng chữ nhan đề ở ngoài bìa trông giống với nét chữ của Ty thuộc (một chức quan) bộ Công là Phan Như Đào thủ hạ của ông Đoàn Đình Duyệt (đang làm Thượng thư bộ Công), vua mật cho lục soát nhà của tên Đào. Đoàn Đình Duyệt ngầm sai thuộc viên mở tủ của tên Đào đặt trong bộ để hủy hết giấy tờ của y, sự việc bị phát giác.

Trong khi điều tra lại bắt được Ưng Thiệu mang yêu thư (sách của Lương Khải Siêu) trong người, y khai do Đoàn Đình Duyệt thuê với thù lao 1000 đồng.

Khi đối chất mặc dù Đoàn Đình Duyệt kiên quyết không nhận, nhưng chiếu theo nhân chứng ông bị đề nghị phạt đòn 100 trượng và đồ 3 năm.

Bản án được trình lên vua Khải Định duyệt, vua nghĩ muốn giữ thể diện cho ông là vị quan đại thần quê ở Bắc Kỳ nên chỉ xử ông bị hạ 2 cấp, thu hồi tước phong (Ninh Lãng nam), cho về hưu với hàm Tuần phủ và được giữ các bội tinh, kim khánh, kim tiền đã được tặng thưởng trước đó.

Khi bộ Hộ tâu hỏi vua Khải Định về mức hưu bổng mà ông Đoàn Đình Duyệt sẽ được hưởng là theo cấp bậc cũ (Thượng thư) hay cấp bậc mới bị giáng 2 cấp (xuống Tuần phủ), vua phê rằng: 

“Đoàn Đình Duyệt đã mắc phải lỗi. Trẫm vì quý trọng bề tôi nên chỉ chuẩn giáng hàm nhưng vẫn cho hưởng bổng hưu. Nay chỉ chiếu theo hàm bị giáng mà chi cấp, chờ cho viên ấy biết tỉnh ngộ thì gặp năm nào có dịp khánh tiết sẽ xem xét có chỉ gia ân riêng, khi ấy lời phê thế nào thì được tuân theo ân điển mới mà hưởng ân trạch.”

Đến năm Khải Định thứ 9 tháng 6/Giáp Tý (7/1924), nhân dịp Tứ Tuần Đại Khánh của vua Khải Định (tháng 9/1924), ông Đoàn Đình Duyệt đã được khai phục chức tước cũ (Hiệp tá Đại học sĩ, Thượng thư bộ Công, Ninh Lãng nam), đồng nghĩa với việc ông được tăng mức hưu bổng căn cứ theo lời phê của vua Khải định ba năm trước đó khi ông bị cho về hưu vì phạm lỗi.

 Những nhận định và đánh giá về Đoàn Đình Duyệt

 “… Từ thời thanh niên, vị Đại quan này đã tỏ ra một ý chí lạ thường. Ngoài ra vị này còn có một thiên tài đặc biệt là sự lanh trí trong mọi tình huống”; ” Ở nhiệm sở Án sát, cũng như ở tất cả các nhiệm sở khác đã được phân công dù trong hoàn cảnh khó khăn đến đâu, vị này cũng có khả năng để hoàn thành nhiệm vụ mà người ta yêu cầu. Luôn luôn vị này tỏ ra một con người giá trị và như thế đáng được nhiều khen ngợi xứng đáng”;”Chúng ta khâm phục các công lao mà vị này đã cống hiến trong việc cai trị các tỉnh, và chúng ta vẫn còn nhớ những gì mà vị này đã làm để phát triển nông nghiệp và với trí tuệ sáng suốt tuyệt vời đã khích lệ được người dân tham gia phát triển”.” Trẫm xin tuyên bố, hỡi vị Thượng thư thân mến, một người giá trị như khanh nghĩa là văn võ toàn tài thì phải được kính trọng trong các tỉnh và ở tại triều đình…” (Sắc phong tước Linh Lãng Nam của vua Khải Định ngày mồng 2 tháng 8 niên hiệu Khải Định thứ nhất – 1916; Những người bạn cố đô Huế, Tập V, trang 98-99, Nhà xuất bản Thuận Hóa – Huế phát hành năm 1998)

Khi nhắc về Đoàn Đình Duyệt thì Nguyễn Đắc Xuân trong “Thư gởi gia đình hậu duệ Đại thần Đoàn Đình Duyệt” qua Nhà báo Đoàn Xuân Trường ngày 29/12/2016, đăng trong Tạp chí Giáo dục và Xã hội số 106 (tháng 1/2020) đã nói như sau: 

“Tôi rất vui mừng đọc được đề mục năm Khải Định thứ 6 (1921)” Ninh Lãng Nam Đoàn Đình Duyệt “mắc tội”. Tội của cụ không phải dính vào tham nhũng hay phản quốc mà vì tội liên quan đến duy tân, cách mạng… tôi cho cụ ” mắc tội” đây là một di sản tinh thần vô giá của vị Đại thần triều Nguyễn để lại cho con cháu. Và qua đó cũng thấy được vua Khải Định đối với Đoàn Đình Duyệt như thế nào, nhân cách, tư cách cao quý của cụ Đoàn như thế nào”

Hay lời nhận xét của Tăng Bá Hoành, Đề dẫn Hội thảo khoa học “Nam tước Đại thần Đoàn Đình Duyệt với đất nước và quê hương Hải Dương” ngày 18/01/2019 tại Ninh Giang, Hải Dương

“…Không phải ngẫu nhiên một cậu bé xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo, phải tha phương kiếm sống trở thành một quan thượng thư đại tài, văn võ song toàn, từng đảm nhiệm chức Thượng thư tới ba bộ, rồi Đại thần của Viện Cơ mật, Chánh nhất phẩm của triều Nguyễn. Trong tiểu sử và sự nghiệp của ông vẫn còn nhiều khoảng trống. Hội thảo khoa học nhằm làm rõ tiểu sử cũng như cống hiến của nhân vật lịch sử đặc biệt này”

Trong Báo cáo tại Hội thảo khoa học ngày 18/01/2019 tại Ninh Giang, Hải Dương đã nói về tấm lòng yêu nước của Đoàn Đình Duyệt:“…Với tấm lòng nhân hậu, yêu nước, thương dân, luôn hướng về quê hương và có những đóng góp thiết thực đối với Ninh Giang nói riêng và Hải Dương nói chung; Thượng thư Đoàn Đình Duyệt đã trở thành tấm gương sáng cho các thế hệ đời sau noi theo…”

“…Nhờ có sự quan tâm của dân làng, đã có không ít con em địa phương vượt khó, học giỏi, thành đạt bằng con đường khoa bảng, trở thành những vị quan nổi tiếng tài năng, đức độ. Tiêu biểu là cụ Thượng Đoàn, người làng Đào Lạng – Là một vị quan tứ trụ trong triều đình Nhà Nguyễn…” là nhận xét được trích dẫn từ Lịch sử Đảng bộ và Nhân dân xã Văn Hội 1930-2010; GPXB số 12/GP-XB Sở Thông tin và Truyền thông tỉnh Hải Dương cấp ngày 27/02/2011 

Tại Hội thảo khoa học “Nam tước, Đại thần Đoàn Đình Duyệt với đất nước và quê hương Hải Dương” ngày 18/01/2019, PGS. TS Nghiêm Đình Vỳ, Chủ tịch Hội Giáo dục lịch sử (Hội khoa học lịch sử Việt Nam) trả lời phỏng vấn Đài Truyền hình Hải Dương như sau: ” …Các báo cáo trình bày tại Hội thảo khoa học đã nói lên được công lao, đức độ của vị đại quan này đối với đất nước và quê hương là rất lớn. Tôi đề nghị Sở Giáo dục và Đào tạo cùng với các ngành chức năng của tỉnh Hải Dương cần có kế hoạch xây dựng kế hoạch, soạn thảo những tài liệu tuyên truyền về cuộc đời, sự nghiệp quan Đại thần Đoàn Đình Duyệt để đưa vào chương trình giảng dạy trong nhà trường phổ thông bởi, Chương trình giáo dục phổ thông mới giảng dạy môn Lịch sử được sắp xếp: Dạy lịch sử Việt Nam; Lịch sử địa phương và Lịch sử thế giới…”

Như một sự ghi nhớ về những công lao và tấm lòng yêu nước thương dân của Đoàn Đình Hải: Trong thời gian làm quan ở Huế (1916-1921) ông Đoàn Đình Duyệt được chính quyền Pháp và Việt tặng thưởng các Huân Chương: Cao Man bội tinh, Bắc Đẩu bội tinh, Kim khánh, Kim tiền.

Ngày 29/12/2016 của UBND tỉnh Lâm Đồng phê duyệt Đề án đưa tên ông Đoàn Đình Duyệt vào Ngân hàng tên (số thứ tự 35) để đặt tên đường phố trong tỉnh cùng với tên của nhiều danh nhân khác.

UBND tỉnh Hải Hương ra quyết định tri ân và đặt tên phố Đoàn Đình Duyệt dài 637 m, mặt cắt ngang 13,5m; Đây là con phố có điểm đầu là Đường Ngô Quyền và điểm cuối đường Điện Biên Phủ 

Hay nhạc sĩ Mai Đoan viết trong bài hát “Tình người Văn Hội”, với mở đầu “Diệu kỳ biết bao quê hương của ta, văn hóa tụ về làm nên Văn Hội; đất linh sinh ra những người tài giỏi, có quan Thượng Đoàn tứ trụ triều đình…” để thể hiện tấm lòng tri ân và kính phục người quan Đại thần Đoàn Đình Duyệt. 

Bài hát ” Tình người Văn Hội” của nhạc sĩ Mai Đoan (tháng 1/2018), mở đầu, có câu: “Diệu kỳ biết bao quê hương của ta, văn hóa tụ về làm nên Văn Hội; đất linh sinh ra những người tài giỏi, có quan Thượng Đoàn tứ trụ triều đình…”

 

Viết một bình luận