Ý nghĩa các dấu gạch nối trong văn phạm miền Nam trước năm 1975: “Phong ba bão táp, không bằng ngữ pháp Việt Nam”

“Phong ba bão táp, không bằng ngữ pháp Việt Nam” là câu nói hóm hỉnh của nhiều người ngoại quốc khi học về tiếng Việt. Tiếng Việt là hệ thống tiếng đặc biệt so với các tiếng khác, sự đa dạng của các dấu thanh làm phong phú tiếng Việt. Nhưng nếu đi sâu vào tìm hiểu, chúng ta có thể thấy, tiếng Việt không chỉ có các dấu “huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng và thanh ngang” để tạo ra âm tiết, nà còn cần hệ thống các nguyên tắc sử dụng các dấu câu như: chấm, phẩy, gạch nối, … Bài viết hôm nay chúng tôi chỉ đi sâu vào dấu “gạch nối” – một dấu được sử dụng thường xuyên trong hầu hết trong các văn bản trước năm 1975.

Ngày nay dấu gạch nối (-) thường được sử dụng để nối các tiếng vay mượn ngôn ngữ nước ngoài như ti-vi, ra-di-o…. Hoặc dùng để phiên dịch ngữ từ tên nước ngoài như: Lê-nin, Ê-đi-xơn,… Tuy nhiên, khi ngược dòng lịch sử và đọc lại những sách báo miền Nam trước năm 1975, chúng ta dễ dàng bắt gặp các chữ ghép được nối với nhau bằng “gạch nối”. Ví dụ như “dinh-độc-lập”, “hạnh-phúc”, “dân-tộc”,…

Vậy những tại sao lại có dấu gạch nối ấy, ý nghĩa của dấu gạch nối đó là gì?

Trước hết, chúng ta cùng tìm hiểu về dấu gạch nối. Vậy dấu gạch nối là gì?

Dấu gạch nối (-) không phải là một dấu câu, nó được sử dụng để tách các âm tiết (tiếng) của một từ.

Tài liệu đầu tiên được biết đến của dấu gạch nối là trong các tác phẩm viết về ngữ pháp của Dionysius Thrax. Trong tiếng Hy Lạp, các dấu này được gọi là enotikon, và  được Latinh hóa một cách chính thức như một dấu gạch nối.

Từ hyphen (dấu gạch nối trong tiếng Anh) có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp cổ đại có nghĩa là “trong một” (nghĩa đen là “dưới một”). Từ này đã được sử dụng cho một dấu hiệu giống như (‿) được viết bên dưới hai chữ cái liên tiếp để chỉ ra rằng chúng thuộc cùng một từ khi cần thiết để tránh hiểu sai, không rõ ràng, trước khi khoảng trắng được sử dụng thường xuyên.

Với sự ra đời của khoảng trắng (hay khoảng cách, dấu cách) trong chữ từ thời Trung Cổ, dấu gạch nối vẫn được viết bên dưới văn bản, gần giống dấu gạch dưới ngày nay, nhưng đảo ngược ý nghĩa của nó. Scribes đã sử dụng dấu gạch nối để kết nối hai từ được phân tách không chính xác bởi một khoảng trắng. Thời đại này cũng chứng kiến sự ra đời của dấu gạch ngang, cho các từ dài bị ngắt giữa chừng bởi các dòng.

Định dạng hiện đại của dấu gạch nối có nguồn gốc từ Johannes Gutenberg ở Mainz, Đức, k. 1455 với việc xuất bản một cuốn Kinh thánh dài 42 dòng của ông.

Tại miền Nam vào những năm trước 1975, những thế hệ học trò đều được dạy dỗ một cách thuộc nằm lòng các nguyên tắc sử dụng dấu “gạch-nối” này. Ngày xưa, khi đọc chính tả, thầy cô sẽ không đọc chỗ nào có chấm, phẩy, chỗ nào có gạch nối, mà học trò sẽ phải tự biết để viết, nếu thiếu sẽ bị trừ điểm.

Trước khi lý giải nguyên tắc sử dụng dấu gạch nối thời ấy, chúng ta cùng nhìn lại về cấu tạo của chữ Việt. Chữ Việt là chữ đơn-âm. Mỗi chữ có một nghĩa riêng và rõ-rệt: chó, mèo, bàn, nóng, đẹp, xấu,…

Vì tiếng Việt không biến âm được như các tiếng đa âm tiết , cho nên, để có thể đáp ứng nhu cầu của sinh hoạt hằng ngày, cũng như để có thể cung cấp từ mới cho các ngành khoa học, kỹ thuật, chúng ta bắt buộc phải tạo ra từ kép trên cơ sở các từ đơn sẵn có. Khi có từ kép, và gạch-nối được dùng để nối hai chữ của từ kép. Thí dụ như chữ “hạnh-phúc”. Đây là một từ kép, nên trước 1975 ở miền Nam, viết chữ “hạnh phúc” phải có gạch nối: hạnh-phúc. Vai-trò của từ kép là ghép hai chữ (từ đơn) để làm thành một chữ khác hoàn-toàn mới. Do đó, từ kép “hạnh-phúc” có ý-nghĩa khác hẳn với hai chữ “hạnh”, hoặc “phúc”

Để rõ hơn, mời bạn đọc lại các trường hợp dùng dấu gạch nối:

  • Chữ kép Hán-Việt: Chúng là sự kết hợp của hai từ có nguồn gốc khác nhau, một là từ gốc Hán (đọc theo âm Hán Việt) và một là từ (gốc) Việt, nhưng về nghĩa chúng lại giống hoặc gần giống nhau. Thí dụ như: trụ cột, hương thơm, vụ việc,
  • Chữ kép thuần Việt, bao gồm chữ kép một âm có nghĩa là dịu-dàng, nết-na… Chữ kép gồm hai âm không nghĩa riêng, nhưng khi ghép lại có thể tạo thành một chữ có nghĩa chung: bâng-khuâng, hững hờ… Chữ kép gồm hai âm có nghĩa riêng: bướm-ong, cay-đắng, đầy-đủ… Chữ kép gồm hai âm đồng nghĩa: dơ-bẩn, dư-thừa… Chữ kép đồng âm: chậm-chậm, xa-xa…
  • Chữ kép địa danh, tên riêng, như Việt-Nam, Luân-Đôn…
  • Chữ có quan hệ qua lại với nhau: hội Việt-Mỹ, dấu hỏi-ngã…
  • Một số từ ngữ mà các âm tiết không thể tách rời: khô-cá, chỉ-vàng

Tác dụng của việc sử dụng dấu gạch nối là để phân biệt từ kép và từ đơn, giúp đoạn văn rõ nghĩa hơn, và tránh ngắt câu không đúng chỗ. Và có một tác dụng ít được nhắc tới của nguyên tắc của dùng dấu gạch nối này trong văn bản đánh máy, đó là các chữ kép không bị tách ra và xuống hàng giữa chừng, làm cho người đọc hiểu nhầm. Thí dụ như có câu nói giỡn chơi quen thuộc như sau:

Mỗi gia-đình có 2 con vợ-chồng hạnh-phúc

Nếu không có dấu gạch nối, rất có thể sẽ bị xuống dòng như sau:

“Mỗi gia đình có 2 con vợ

chồng hạnh phúc”

Hiện nay chưa có nghiên cứu nào nói rõ nguyên tắc dùng dấu gạch nối này có từ bao giờ, nhưng xem lại báo chí và văn bản từ thập niên 1920 đã sử dụng dấu gạch nối này ở cả 2 miền Nam-Bắc. Mời bạn xem lại hình ảnh công thư này của quốc trưởng Bảo Đại (năm 1953), và của ông Võ Nguyên Giáp (năm 1945), đều có dấu gạch nối trong từ kép.

Bản gốc công điện của Bộ trưởng Bộ Nội Vụ Võ Nguyên Giáp của chính phủ lâm thời năm 1945:

Tuy nhiên, xem lại tờ báo chữ Quốc Ngữ đầu tiên là Gia Định Báo, số phát hành năm 1890, thì dấu gạch nối chỉ dùng cho các địa danh hoặc tên riêng, như Bến-tre, năm Canh-Dần, Nam-Kỳ…

Đến đầu thập niên 1920, có một bộ sách nổi tiếng do học giả Trần Trọng Kim chủ biên, đó là Quốc-Văn Giáo-Khoa Thư, có thể xem là bộ sách giáo khoa đầu tiên dùng để dạy chữ quốc ngữ cho học sinh cấp Sơ học yếu lược (tương đương với ba năm đầu tiểu học ngày nay) trên toàn cõi Việt Nam. Có thể đây là bộ sách đầu tiên chính thức dùng dấu gạch nối trong văn bản chữ quốc ngữ?

Hiện nay, nguyên tắc sử dụng dấu gạch nối này từ lâu đã không còn trong các văn bản chính thức trên toàn nước Việt, mà chỉ còn trong trí nhớ của những người đã từng học tập tại miền Nam trước đây gần nửa thế kỷ.

Và ngày nay trong chương trình học của họ sinh được học công dụng của dấu gạch nối một cách đơn giản hơn. Với các đặc điểm sau:

  • Dấu gạch nối ngắn hơn dấu gạch ngang.
  • Dùng để nối các tiếng vay mượn ngôn ngữ nước ngoài như ti-vi, ra-di-o…

Khi sử dụng dấu gạch nối (-) không cách 1 khoảng giữa 2 từ.

Ví dụ:

– Cách viết sai: Mát – xcơ – va là thủ đô của nước Nga.

– Cách viết đúng: Mát-xcơ-va là thủ đô của nước Nga.

Và có một dấu rất dễ gây nhầm lẫn với dấu gạch nối đó là dấu gạch ngang. Hai loại dấu này thường dễ nhầm và gây ra sự khó hiểu cho người đọc. Những tác dụng của dấu gạch ngang gồm:

  • Để chỉ sự ngang hàng trong quan hệ từ. Ví dụ: Tình hữu nghị giữa hai nước Việt – Trung được xây dựng và duy trì từ rất lâu.
  • Đặt giữa hai con số ghép lại để chỉ một liên số hoặc một khoảng số, thường sử dụng cho ngày, tháng, năm, các năm với nhau. Ví dụ: Cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ kéo dài từ 1945 – 1975.
  • Để nối những tên địa danh, tổ chức có liên quan đến nhau. Ví dụ Tuyến cao tốc Long Thành – Dầu Giây giúp rút ngắn khoảng cách đi thành phố Vũng Tàu.Dùng để liệt kê những nội dung, bộ phận liên quan.
  • Để ngăn cách thành phần chú thích với thành phần khác trong câu.
  • Để đánh dấu lời nói trực tiếp của nhân vật, thường được đặt đầu dòng

Khi sử dụng dấu gạch ngang trong câu thì dấu phải cách từ ở phía trước và phía sau nó 1 dấu cách (khoảng trống).

Ví dụ:

– Cách viết sai: Sài Gòn–Hòn Ngọc Viễn Đông

– Cách viết đúng: Sài Gòn – Hòn Ngọc Viễn Đông.

Viết một bình luận