Cuộc đời Ba Dương – vị tướng quân đội đầu tiên ở Tây Nam bộ lại là thủ lĩnh của giới lục lâm thảo khấu Nam Kỳ xưa

Dương Văn Dương hay còn gọi là Ba Dương (1900–1946) là thủ lĩnh của lực lượng quân sự Bộ đội Bình Xuyên trong kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945–1946.

Ông sinh quán ở Bến Tre nhưng lên Sài Gòn làm ăn từ nhỏ. Ông còn có các tên gọi Ba Lê, Sáu Phận, Ông Sáu Nam Vang. Có nguồn cho rằng ông là sinh ra trong một gia đình lưu dân vùng Ngũ Quảng (miền Trung Việt Nam).

Thủ lĩnh của giới lục lâm thảo khấu Nam Kỳ bấy giờ

Khi chiến tranh Thế giới lần thứ hai nổ ra, Ba Dương vẫn là người nông dân chân lấm tay bùn, cần cù lao động trên mấy công ruộng của gia đình. Ngoài ra, anh còn có nghề nuôi vịt đồng, chính cái nghề này dẫn anh đến nhiều chỗ rẽ của cuộc đời. Anh nuôi một bầy vịt mấy nghìn con, lùa qua các cánh đồng lúa chín vừa gặt xong để chúng tự mò lúa rơi vãi. Anh lùa vịt đi nhiều nơi, từ Nhà Bè, Cần Giờ qua Cần Giuộc, Cần Đước, rồi Vàm Láng… Đi đến đâu, hễ nghe nói có người giỏi võ là anh đến xin thụ giáo, xin thầy truyền cho một vài miếng võ độc. Võ là niềm say mê đồng thời là năng khiếu bẩm sinh của anh, đúng như lời thiên hạ đồn đại: “Ba Dương mới sanh ra đã mang dòng máu võ hiệp”. Tiếng tăm nổi lên như cồn, Ba Dương tạm gác việc nhà nông để mở lò dạy võ theo yêu cầu của thanh niên trong vùng Nhà Bè. Thầy giỏi và có uy tín, môn đệ rủ nhau xin theo thầy, đông nhất là những người quen được gọi “dân anh chị”. Ba Dương mặc nhiên trở thành thủ lĩnh của họ và được xem là một trong những thủ lĩnh của giới lục lâm thảo khấu Nam Kỳ bấy giờ.

Cuối tháng 11-1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ dù thất bại, vẫn là sự kiện chính trị to lớn của đất nước, có ảnh hưởng lớn đến Ba Dương. Trong năm 1941, hai lần anh bị thực dân Pháp bắt, đưa vào phòng biệt giam và tra tấn dã man. Anh có tích trữ vũ khí và tiếp xúc với người của Đảng cộng sản làng Tân Thuận, nhưng trong tù kiên quyết không nhận lời buộc tội của bọn cầm quyền. Cuối cùng chúng phải trả tự do cho anh.

Ra tù, anh bàn với môn đệ và bạn bè mua sắm, truy tầm súng đạn để sử dụng khi hữu sự. Anh tìm đến các đảng viên Cộng sản từng quen biết như Ba Của, Hai Lân, Tư Huệ. Đây là thời kỳ anh nhận được sự giáo dục, giác ngộ trực tiếp của Đảng. Nhận thức chính trị và sự hiểu biết về thời cuộc được nâng lên rõ rệt.

Thiếu tướng Dương Văn Dương

Từ thủ lĩnh Bình Xuyên đến Khu bộ phó Khu 7

Sau khi Nhật đảo chính Pháp ngày 9-3-1945, Dương Văn Dương càng xúc tiến mạnh việc truy tầm súng đạn. Người của anh không chỉ gạ gẫm lính để mua hoặc đổi chác mà còn chặn bắt tước súng của chúng, cũng như đột nhập nhà bọn hào lý buộc chúng nộp súng để được tha mạng. Tính đến tháng 7-1945, nhóm vũ trang của anh đã có 70 người với hơn 50 súng trường, một trọng liên 13,2mm và một đại bác hai nòng 24mm. Ban sưu tầm vũ khí mò dưới sông vớt được vô số súng đạn quân Pháp đổ xuống trước đó, lại gỡ được một số máy móc, thiết bị có giá trị trong mấy chiếc tàu bị chìm. Còn tại binh công xưởng có nhiều thợ cơ khí lành nghề hăng hái làm việc dưới sự hướng dẫn của mấy kỹ sư trẻ. Cũng cần nói thêm có sự phối hợp của nhóm Ba Dương với Thanh niên Tiền phong Nhà Bè, dưới sự lãnh đạo của chi bộ Đảng. Trong vòng ba tháng (từ tháng 5 đến 8-1945), hàng trăm tên chỉ điểm, mật thám, cảnh sát bị thủ tiêu, bị khống chế, nhiều tên phải chui lủi đi nơi khác, chính quyền tay sai ở hầu hết các làng đã bị vô hiệu hóa.

Bí thư chi bộ quận Nhà Bè Lê Văn Của (Ba Của) truyền đạt cho Dương Văn Dương toàn bộ kế hoạch Tổng khởi nghĩa của Xứ ủy Nam Kỳ và Tỉnh ủy Gia Định, đề nghị Ba Dương đặt toàn bộ lực lượng hiện có vào tư thế sẵn sàng hành động. Ba Dương cảm động nói: “Từ bao năm trời nay tụi ngoại bang đè đầu cưỡi cổ áp bức dân mình, nay là cơ hội ngàn vàng để mình hạ diệt chúng. Chúng tôi nguyện theo Đảng tới cùng”.

Đêm 24 rạng 25-8-1945, Sài Gòn tiến hành Tổng khởi nghĩa thắng lợi. Trưa 2-9-1945, hơn hai triệu đồng bào miền Đông tập trung về Sài Gòn đón nghe Cụ Hồ đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại vườn hoa Ba Đình. Nhóm Ba Dương đã có phần đóng góp xứng đáng vào thắng lợi chung.

Thanh thế của Ba Dương lan tỏa khắp gần xa. Bởi vậy ngay sau khi Xứ ủy và Lâm ủy hành chánh Nam bộ chủ trương thống nhất các băng nhóm tự do (dân anh chị), nhiệm vụ này được giao cho Ba Dương. Ngoài nhóm của anh, còn tám nhóm khác ít nhiều đều đã có tham gia hưởng ứng Tổng khởi nghĩa, nhanh chóng nghe theo lời thuyết phục của anh. Tất cả hợp thành một lực lượng đông đảo nhưng thống nhất với danh xưng Bộ đội Bình Xuyên, bầu Ba Dương làm chỉ huy trưởng. Ở thời điểm này, tháng 10-1945, quân số của Bộ đội Bình Xuyên gồm 2.000 người, biên chế làm 24 trung đội chiến đấu, trang bị 1.000 súng các loại, trong đó có 2 đại bác 24mm, 7 trọng liên 13,2mm, 15 trung liên.

Chân dung thiếu tướng Ba Dương

Thực dân Pháp, được quân Anh tiếp sức, trở lại gây hấn, đánh chiếm hàng loạt địa điểm quan trọng trong thành phố. Ủy ban Kháng chiến Nam Bộ quyết định thành lập Mặt trận nội đô và bốn Mặt trận bao vây quanh thành phố. Bộ đội Bình Xuyên và một số bộ đội khác đảm trách Mặt trận số 4 ở phía nam thành phố. Lúc đầu Bảy Trân (Nguyễn Văn Trân), cán bộ kỳ cựu của Đảng là chỉ huy. Nhưng ngay sau đó Bảy Trân chuyển về làm Bí thư huyện ủy Cần Giuộc là địa bàn vừa rơi vào tay địch, trên chỉ định Ba Dương thay thế. Trách nhiệm nặng nề đặt lên vai anh: chỉ huy trên 3.000 cán bộ, chiến sĩ của 11 bộ đội (cấp trên của đại đội), chặn địch và bao vây chúng trên một chính diện dài 12 ki-lô-mét, mà người chỉ huy chưa từng qua một lớp học quân sự nào cả. Tất cả cán bộ, chiến sĩ cũng như người chỉ huy Mặt trận chỉ có tấm lòng yêu nước nồng nàn, từ đó biến thành quyết tâm và mưu kế đánh địch. Trên cương vị mới này, phẩm chất và năng lực của Ba Dương được thể hiện rõ. Trong tháng 11-1945, anh tổ chức một số tổ, đội cảm tử liên tiếp tập kích, tiến công địch ở đồn Cây Mai, đường Ga-li-ê-ni, Giếng nước, nhà máy điện Chợ Quán… gây cho chúng thiệt hại đáng kể.

Sau khi Nguyễn Bình, đặc phái viên Trung ương Chính phủ Liên hiệp Lâm thời Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, vào Nam Bộ, các lực lượng vũ trang chống Pháp được tổ chức lại. Lực lượng do Dương Văn Dương lãnh đạo, là lực lượng quân sự mạnh nhất ở Đông Nam Bộ, được tổ chức thành các chi đội, hợp thành Liên khu Bình Xuyên. Tháng 12 năm 1945, Dương Văn Dương được Nguyễn Bình chỉ định chức vụ làm Khu bộ phó Khu 7 (phụ trách địa bàn Đông Nam Bộ).

Đầu năm 1946, Dương Văn Dương chỉ huy một bộ phận quân Bình Xuyên vượt sông Soài Rạp từ Rừng Sác về Bến Tre cứu nguy cho mặt trận An Hóa – Giao Hòa. Không may, ông bị máy bay Spitfire của Pháp bắn chết tại ấp Hồ Sen xã Bình Thành huyện Giồng Trôm. Ngày mất của ông có nhiều nguồn ghi khác nhau: 7 tháng 2 năm 1946 (mùng 6 Tết Bính Tuất); 16 tháng 2 năm 1946; 17 tháng 2 năm 1946 (16 tháng Giêng năm Bính Tuất); 20 tháng 2 năm 1946 (19 tháng Giêng năm Bính Tuất); 22 tháng 2 năm 1946. Lực lượng Bình Xuyên sau đó được tổ chức chính quy và được đặt tên là Trung đoàn Dương Văn Dương.

Bộ phim “Dưới cờ đại nghia ” Phim được chuyển thể từ tác phẩm Người Bình Xuyên của nhà văn Nguyên Hùng nói về cuộc đời của Dương Văn Dương

Ngay sau khi ông tử trận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi mật điện chia buồn với gia đình. Ngày 5 tháng 8 năm 1948, nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã truy phong ông là liệt sĩ, Thiếu tướng Quân đội Quốc gia Việt Nam, là vị tướng được truy phong đầu tiên của miền Nam Việt Nam.

Năm 1947, tên ông còn được đặt cho một con kênh ở Mộc Hóa, Tân An (tên cũ là Lagrange). Tên này còn được giữ lại cho đến ngày nay.

Ngày 7 tháng 4 năm 2000 Thành phố Hồ Chí Minh đã đặt tên đường Dương Văn Dương cho một đường hẻm mới được mở rộng từ năm 1996, dài khoảng 450 mét, nằm trên địa bàn phường 16 quận Tân Bình, nay thuộc quận Tân Phú từ Siêu thị Nhật Bản AEON đến đường Đỗ Thừa Luông.

Ngày 23 tháng 6 năm 2014, Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố ban hành Quyết định số 3078/QĐ-UBND về thành lập trường Trung học phổ thông Dương Văn Dương đặt tại Ấp 2, xã Phú Xuân, huyện Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh.

Viết một bình luận