Sài Gòn của những năm 1955 và cuộc sống hội nhập của những người di cư vào Nam

Buông bỏ tất cả những cái mình đã và đang có ở vùng quê nhà quen thuộc, để đến một vùng đất mới, con người mới và cuộc sống mới. Những người dân ở miền Bắc khi di cư vào miền Nam, hay nói chính xác hơn là những người di cư vào Sài Gòn luôn gặp rất nhiều bỡ ngỡ với vùng đất đầy nắng và gió này. Họ đã ngạc nhiên biết bao khi nhìn thấy dân Sài Gòn không bốc thuốc lá ở phần của bao thuốc, mà lại dùng tay khoét một cái lỗ nhỏ ở gần đáy thuốc rồi rút điếu thuốc ra. Họ không hiểu tại sao người Sài Gòn không uống cà phê bằng tách hay nhâm nhi bằng muỗng mà lại đổ chúng ra cái đĩa rồi húp soàn soạt từng ngụm rồi từng ngụm. Tờ tiền bạc 1 đồng sao không đưa cho người bán để họ thối lại 5 cắc mà lại xé toạc nó ra làm đôi và xem nó như 5 cắc để trả tiền cho “tiện”? Còn nữa, nữ sinh trong Nam kép tóc cao đến tận gáy, quần áo thì cũng lạ hơn khi chiếc quần trắng ông nó lại rộng gấp đôi bình thường lại còn mang trên chân đôi guốc mộc! 

Những ngày cuối cùng của dân Hà Nội trước khi di cư vào Nam năm 1954

Phóng sự Sài thành xài tiền của Hà Việt Phương báo Đời Mới số 68 ra đời tháng 7 năm 1953 đã từng kể về một ông bạn vừa từ ngoài Bắc vào Sài Gòn sinh sống chưa lâu. Nghe tin ông định đi thăm hỏi nhà người lúc trong này mà lúc đó thời gian chỉ mới tầm 7 giờ sáng, thì bà chủ trọ đã có ý ngăn cản ngay, bà bảo, lúc đó còn sớm quá, phải tầm độ “chín giwof trở đi thì những người như ngài mới bắt đầu xuống phố”. Bà chủ trọ cũng là một người con gốc Huế, vào Sài Gòn định cư cũng lâu rồi, bà nói rằng: Mấy người ngoài Bắc vào, ai cũng dậy vô cùng sớm, họ đi chơi sớm và ngủ cũng sớm. Nhưng người trong Nam này lại thức rất khuya, họ có cuộc sống về đêm phong phú hơn nhiều. Bà đưa hẳn cả một minh chứng ra để người này tự chứng thực: “Tối trời, ngài cứ ra các tiệm hay các khu chợ gần đây mà xem thử, đâu đâu cũng chật cứng người là người thôi, mà phần lớn là những anh em lao động, ban ngày làm việc quần quật, ban đêm vui chơi cho thỏa sức. Họ cứ làm được đồng nào thì xào ngay đồng nấy cho nóng, mai lại đi kiếm tiền tiếp. Người Nam trong này không biết dành dụm là gì hết đâu. Bây giờ mới có người tập tành mà biết vá áo, lặt rau, chứ ngày trước thì dùng cái gì cũng là nguyên chất cả, hơi hỏng hỏng một xí là “đổ bỏ” không hề chữa chạy bao giờ… Lo gì đâu, trong này cứ không lụt lội hay không mất mùa thì chẳng lo thất nghiệp…”.

Bà chủ nhà trọ còn mách cho ông khách thuê vài mẹo nhỏ khi sống ở Sài Gòn: Ra đường, nhìn thấy phu xích lô ở Sài Gòn, ai mà hay mặc quần “cộc” (tức là dáng quần ngắn) thì phần lớn người ấy chính là “người ta” (bà chủ là đang nói người từ Bắc hay Trung vào Nam làm việc). Còn người trong này hoang phí lắm, cái gì cũng ra tiệm hết á. Ăn bận toàn là hàng mắc tiền, phải là quần áo vải lụa mỏng tanh mới chịu. Còn người lao động trong này, cứ thấy tiện tiện là ngồi bệt xuống đất thôi! Họ không sợ hư hay bẩn quần áo, bẩn thì về giặt là sạch, còn nếu lỡ rách hay hư thì cứ quăng đi rồi may cái khác, hoang phí tới vã mồ hôi….

Người người rủ nhau lên tàu chuẩn bị vào Nam

Những người thuộc giới trí thức hoặc những văn nghệ sĩ từ miền Bắc chuyển vào Sài Gòn, ai mà chẳng ấp ủ một ước mơ về một cuộc sống tươi đẹp nơi quê hương mới, biết bao hoài bão mong được thực hiện cho vùng đất mới này. Nhưng đến cuối cùng, họ lại chợt nhận ra, dù có nổi tiếng bao nhiêu thì họ cũng phải học được cách đối diện với những khó khăn khi bước đầu hòa nhập vào đô thị – nơi mà họ sống lâu dài. Tờ báo Đời mới năm 1954 đã làm hẳn một chuỗi phóng sự dài tập từ hồi mới vô Sài Gòn của giới văn nghệ sĩ, phát hiện ra có khá nhiều câu chuyện cảm động khiến người nghe phải suy ngẫm và đồng cảm về những gì họ đã phải trải qua ở miền quê mới này. 

Ngày trước có một nhà văn tên là Thượng Sỹ – ông là một nhà văn nổi tiếng từ thời tiền chiến, cũng chính là người mà nhà văn Vũ Bằng từng nhắc tới trong cuốn “Bốn mươi năm nói láo”. Ông kể, gia đình ông khi di cư vào Sài Gòn để sống chỉ có 4 người thôi gồm hai vợ chồng ông và hai đứa con nhỏ, đứa con nhỏ và chị giúp giữ bé. Nhìn thì có vẻ nhẹ gánh lắm, vì dù sao ông cũng là một nhà văn nổi tiếng thêm đó là một nhà phê bình văn chương, nhưng gia đình ông vẫn gặp nhiều khó khăn ở cái thuở ban đầu. Có lẽ do khác biệt về thời tiết, nên vừa vào ông đã lên cơn sốt rét, phải vào bệnh viện Bình Dân nằm để điều trị. Sau đó, vợ con ông và chị giúp việc phải lên xe xích lô máy chạy vòng vòng Sài Gòn – Gia Định để tìm kiếm bà con họ hàng trong này. Nhưng tìm mãi cũng chẳng thấy bóng dáng ai, ngoài trời thì tối nên anh xích lô máy thấy vậy mới ngỏ ý đề nghị gia đình ông về ở nhà anh ở tạm khúc Vườn Lài. Vừa về tới nhà thôi, anh chàng đã bảo liền với vợ:

“Má bầy trẻ đâu rồi, tôi có đón được một người làng xóm cũ lên đây!”

Sở dĩ anh nói vậy là vì anh là người gốc Bắc, vào Nam lấy vợ nên anh đã nhanh trí mà nhận “người làng” để đối đãi thêm thân tình và mong chị vợ thêm trọng khách. Chị vợ là con người chất phác, cứ lăng xăng hết này tới kia, nào là đi quét cái bộ ván để ba vị khách của chồng nằm nghỉ, sau đó lại đi châm chút trà nóng, lại còn ra tiệm bỏ ra 10 đồng để mua thịt quay về đãi khách nữa. Lên bà ăn, chỉ vợ chẳng ngần ngại gì mà hỏi ngay: 

“Chẳng hay anh của chị mần nghề gì?”

Do vừa nên vẫn chưa hiểu tiếng của người Sài Gòn nên chị vợ của nhà văn Thượng Sỹ ngồi im không đáp, anh xích lô thấy vậy thì đáp thay: 

“Anh ấy làm “nhật chình”!” (nhật trình là cách gọi của báo chí cách nay cũng trên dưới nửa thế kỷ ở miền Nam rồi)

Chị vợ nghe vậy có thiện cảm ngay với vợ người làm báo mới quen này: “Ờ, tốt lắm. Có phải như các ông nhà báo ở Sài Gòn thường viết bài bênh vực nhà lá bị đuổi đất không?”

Đến sáng hôm sau, anh xích lô lại nhiệt tình mà chở cả nhà đi thăm ông nhà văn vẫn đang nằm bệnh viện. Ông Thượng Sỹ nghe kể lại câu chuyện thì cảm động lắm. Sau vài ngày khỏi bệnh, ông lại tiếp tục nhờ anh xích lô chở đi tìm người bà con, gặp một nhà văn quen biết nên ông tá túc nhờ nhà vài hôm. Sau đó, có một hôm chị vợ ra chợ mua ít đồ, bà vô tình gặp một chị bạn không quen biết, lời qua tiếng lại đôi điều hỏi thăm, chẳng biết thế nào chị ấy lại nói: 

“Thôi, chị cứ theo tôi về nhà ba má tôi ở đi. Cứ nhận là người quen, bạn cũ của tôi, thế nào ông bà cũng cho ở đậu”

Thế là gia đình ông nhà văn Thượng Sỹ đã đến đó ở, nó là một căn nhà lá rộng rãi trên đường Quang Trung, Gò Vấp. Ông bà chủ nhà tuy đã lớn tuổi nhưng cũng còn khỏe lắm, vẫn còn làm việc được, họ chuyên nghề đúc ống cống xi măng. Gặp khách lạ, ông bà nói ngay: 

“Thầy cô cứ ở đây với tôi, khỏi phải mua giường chiếu, mùng mền, đồ bếp, tôi có sẵn cả. Tôi để thầy cô dùng chung. Gạo củi, mắm muối, cứ tự nhiên nấu cơm mà ăn!”. 

Đã vậy, bà chủ còn chẳng lấy một xu nhỏ nào của hai vợ chồng. 

Người lựa chọn lên máy bay, người chọn đi tàu chỉ mong tìm được đường di cư vào miền Nam

Gia đình ông Thương Sỹ ở đó, nhưng lại không muốn lạm dụng lòng tốt của hai ông bà chủ nhà nên xin được tư lo ăn uống, chỉ xin ở nhờ gia đình thôi. Rồi, ông chủ nhà cũng nói luôn, đều là lời nói xuất phát từ đáy lòng: 

“Cô Hai chớ nề hà mà chi. Nghe con gái tôi cho hay thầy Hai đây làm báo, nên tôi quý thầy lắm. Vì bấy lâu nay đọc báo, tôi thấy các ông nhà báo luôn bênh vực anh em lao động chúng tôi. Tôi có phải nhịn ăn mà giúp thầy cô, tôi cũng vui lòng!”

Sau này có thời gian, nhà văn Thượng Sỹ mới nói với tác giả của bài tường thuật này rằng: 

“Tôi cứ tưởng xảy nhà ra thất nghiệp… nào ngờ tôi lại hai lần “sa” vào hai cành gia đình lao động. Ấy cũng là tôi hái quả của một cây mà các anh vun bón cho tươi tốt…”. 

Chắc sâu trong thâm tâm của ông cũng biết rằng đó còn do tình tình hào sảng của người Sài Gòn, họ luôn sẵn sàng giúp đỡ những người đang gặp khó khăn. Giống như họ ngày trước, lúc chân ướt chân ráo lên Sài Gòn được người người giúp đỡ nên giờ gặp hoàn cảnh như họ thì họ cũng muốn giúp lại. Điều này, khiến cho nhà văn nói lên ý nghĩ trong lòng rằng: 

“Nếu được tiếp tục nghề cầm bút ở đây, tôi sẽ quyết dùng ngòi bút phục vụ cho đời sống người bình dân lao động”. 

Và đúng như vậy, chỉ sau một thời gian ngắn ông lại tiếp tục đi làm cho một tòa soạn báo, cầm bút phục vụ cho đời sống chứ không dạy học như ý định ban đầu đặt ra. 

Những người dân này đang bán dần những đồ đạc của mình để chuẩn bị mọi thứ cho cuộc di cư khi Hiệp định Genève được công bố

Nhà văn Tam Lang – tác giả của bài phóng sự nổi tiếng “Tôi kéo xe”, bước đầu khi vào miền Nam cũng ấp ủ biết bao là mộng ước, biết bao là hoài bão muốn thực hiện. Trước khi vào sống hẳn tại Sài Gòn, ông từng vào đây để tĩnh tâm viết hai vở chèo cổ, theo như bài báo trên báo Đời Mới. Sau khi viết xong, ông lại lập tức bay thẳng ra Bắc để lập một gánh hát chèo. Theo như tác giả Trương Thọ Phú cho biết thì nhà văn Tam Lang khi vào Nam vẫn muốn làm sống lại chèo cổ ở Sài Gòn. Ông đã từng nói: 

“Chèo cổ là âm thanh thuần túy của đất nước, không như tuồng cổ là điệu hát bắt chước điệu tuồng Tàu, cũng không như tân nhạc bắt chước điệu hát của Tây. Đây là thứ âm thanh đặc biệt Việt Nam…”. 

Đây chính là tâm huyết của vị vua phóng sự đất Bắc, với mong muốn phục hưng nền văn hóa dân tộc trên vùng đất mới ở Sài Gòn. Tuy nhiên, chuyện đó đã không được thực hiện, bởi thực tế ta thấy đây. Trước kia, ông cũng không thực hiện được điều đó ở Hà Nội ngàn năm văn vật, lúc đó lại đang mê tân nhạc và… cải lương miền Nam.

Những người này đang lên tàu vào Nam
Người chất đầy trên xe để chuẩn bị tiến ra phía phi trường Gia Lâm
Xe đang chở người thẳng tiến ra phi trường Gia Lâm

Câu chuyện về cuộc sống di cư và hội nhập của những con người mới nơi đất Sài Thành này là một câu chuyện dài tập, nhiều chương. Không chỉ có nước mắt, nó còn chứa cả nụ cười, không chỉ có những sự khắt khe mà còn bao hàm sự bao dung và rộng rãi, không phải ai cũng có sự hiểu biết trong cư xử vì đôi khi cũng có người thiếu sự cảm thông,….Nhưng qua thời gian và yêu cầu của cuộc sống một đô thị lớn, những tính cách về sự bảo thủ cũng dần bị pha loãng ra, họ dần học được cách chấp nhận lẫn nhau, dần tìm được cách dung hòa những dị biệt trong cách sống của nhau. Sau đó thì hợp lực để mà xây dựng cuộc sống yên ổn và phát triển. Chính sự dung hòa và bao dung đó đã tạo nên những chất riêng cho Sài Gòn, cá tính của con người Sài Gòn ngày nay. 

Mấy đứa nhỏ đang cùng gia đình và người thân lỉnh kỉnh đồ đạc mà tìm đường vào Nam

Viết một bình luận