Vụ án “Lệ Chi Viên”, “món nợ” của lịch sử với bậc hiền tài Nguyễn Trãi cùng vấn đề còn bỏ ngỏ “Ai là người giết vua để Nguyễn Trãi mang nỗi oan khuất?”

Vụ án “Lệ Chi Viên”, “món nợ” của lịch sử với bậc hiền tài Nguyễn Trãi cùng vấn đề còn bỏ ngỏ “Ai là người giết vua để Nguyễn Trãi mang nỗi oan khuất?”

Tranh vẽ Nguyễn Trãi

Vụ án “Lệ Chi viên” được xem là vụ án oan kinh hoàng nhất trong sử Việt, đặc biệt đối với công thần, bậc hiền tài bậc nhất trong lịch sử dân tộc – Nguyễn Trãi. Vậy ai là người đã khiến Nguyễn Trãi chịu nỗi oan khuất “Lệ Chi Viên”?

Định mệnh

Cuốn “Đông A di sự” có ghi chép rằng ông ngoại của Nguyễn Trãi chính là quan tư đồ Trần Nguyên Đán, trụ cột của nhà Trần, rất giỏi về mệnh lý.

Về tài mệnh lý của Trần Nguyên Đán, “Đông A di sự” kể rằng ông từng xem lá số tử vi của thái thượng hoàng Nghệ Tôn, thấy có Vũ Phá thủ mệnh, coi người thân như cừu thù, coi kẻ ác như ruột gan, chắc chắn sẽ nghe Hồ Quý Ly; lại thấy Quý Ly có Tử Phá thủ mệnh, biết y sẽ cướp ngôi, và nhà Trần mất. Khuyên can thượng hoàng nhiều lần mà không được, cuối cùng Trần Nguyên Đán quyết định kết làm thông gia với Hồ Quý Ly.

Đúng như dự đoán của Trần Nguyên Đán, năm 1399, Hồ Quý Ly cho thanh trừng 370 tướng lĩnh tôn thất nhà Trần, dẹp tan thế lực nhà Trần, năm 1400 thì lên ngôi vua. Tuy nhiên gia đình Trần Nguyên Đán không hề bị Hồ Quý Ly đụng đến, nhờ thế cháu nội và cháu ngoại của ông là Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi mới có điều kiện ăn học thành tài, sau này đều là anh hùng dân tộc.

Trần Nguyên Đán khi xem lá số của Trần Nguyên Hãn và Nguyễn Trãi biết 2 cháu mình sau này sẽ thành nghiệp lớn. Với Trần Nguyên Hãn thì ông không lo lắng lắm, nhưng ông lại rất lo cho Nguyễn Trãi. Sau khi xem lá số tử vi của Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Đán đoán biết rằng đây là lá số của anh hùng dân tộc, nhưng lại gặp phải họa đến ba họ, vì thế mà dặn Nguyễn Trãi cẩn thận rằng: “Chiếm thành thì lui binh”, dù Trần Nguyên Đán biết rằng số mệnh khó lòng thay đổi được.

Thăng trầm chốn quan trường

Nguyễn Trãi là người có công lớn trong cuộc chiến chống lại quân Minh, ông là người cùng hoạch định các kế sách cho nghĩa quân Lam Sơn, và đã cùng quân Lam Sơn đi từ không có gì nổi bật trong số hàng chục cuộc khởi nghĩa lúc đó dần dần thành cuộc khởi nghĩa mạnh nhất cho đến khi giành được thắng lợi hoàn toàn vào năm 1427.

Đầu năm 1428, dù chưa chính thức lên ngôi vua, Lê Lợi đã tổ chức đại hội để ban thưởng. Lúc đó, Nguyễn Trãi được ban tước Quan Phục hầu, chức danh đầy đủ của ông là “Tuyên phụng đại phu, Nhập nội hành khiển Môn hạ Hữu gián nghị đại phu, Đồng Trung thư lệnh sự, tứ Kim tử ngư đại, Thượng hộ quốc, Quan phục hầu, tứ tính Lê Trãi”.

Nguyễn Trãi

Trong đó đáng chú ý có “Tứ Kim ngư đại” là được ban cái túi thêu con cá vàng, một đặc ân đối với đại thần từ quan tam phẩm trở lên. “Thượng hộ quốc” là một huân hàm dùng để tặng riêng cho người có công lao lớn. Quan phục hầu là phẩm tước gia ban mà cao nhất là Huyện Thượng hầu, cũng thời gian này được ban cho Lê Vấn, Thượng hầu ban cho Lê Ngân, hai vị khai quốc công thần của nhà Lê. Tứ tính Lê Trãi là Nguyễn Trãi được đặc ân ban quốc tính, tức được đổi theo họ của nhà vua.

Với những chức tước nêu trên, ở thời điểm ngay sau chiến thắng, Nguyễn Trãi cũng có vị thế nhất định trong triều đình nhà Lê. Tuy nhiên sau đó không lâu, nhất là sau sự kiện tự trẫm của Trần Nguyên Hãn và cái chết của Phạm Văn Xảo, hai vị đại thần và là người thân thiết với Nguyễn Trãi, ông dần dần bị hạn chế quyền hành. Nguyễn Trãi chủ yếu chỉ được giao cho san định lễ nhạc, sử sách, ông từng hiệu đính nhã nhạc, định quy chế mũ áo…

Nguyễn Trãi vừa tài giỏi lại chính trực, mọi việc làm của ông đều là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, vì thế khi chiến tranh nổ ra ông cũng có những đóng góp quan trọng cho nghĩa quân; thế nhưng trong vương triều thì Nguyễn Trãi lại không hợp lòng nhiều người.

Chẳng vậy mà trong lạc khoản bài văn bia soạn cho lăng mộ Lê Thái Tổ năm Thuận Thiên thứ 6 (1433), Nguyễn Trãi chỉ tự đề là: “Vinh lộc đại phu, Nhập nội hành khiển tri Tam quán sự, thần Nguyễn Trãi vâng soạn”. Tam quán bao gồm Chiêu văn quán, Tập hiền viện và Sử quán, coi việc sưu tập điển tịch, đồ thư và soạn sử. Rõ ràng là Nguyễn Trãi chỉ đảm nhận những chức vị hết sức khiêm tốn. Ngay cả đặc ân ban quốc tính, cũng không thấy nêu ở đây.

Nhưng rồi sau đó, Nguyễn Trãi được Lê Thái Tông khôi phục quyền chức và được trọng dụng mà trong biểu tạ ơn năm 1439 ghi là “Vinh lộc đại phu, Nhập nội hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu gián nghị đại phu kiêm Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ, tri Tam quán sự, đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự, á đại trí tự, tứ quốc tính Lê Trãi”. Như vậy, hầu như các chức tước cũ của Nguyễn Trãi đã được khôi phục.

Cũng chính vì sự trọng dụng của vua Lê Thái Tông đối với Nguyễn Trãi mà nhiều lộng thần muốn trừ ông.

Thảm án xót xa bao thế hệ

Cuối năm 1437, Nguyễn Trãi thực hiện lời căn dặn của ông ngoại Trần Nguyên Đán xưa kia – “chiếm thành thì lui binh”. Ông xin từ quan về quê nhà ở Côn Sơn.

Tuy nhiên vua Lê Thái Tông lúc bấy giờ tỏ ra rất xem trọng Nguyễn Trãi và cố mời ông lại ra làm quan cho triều đình. Năm 1439, Nguyễn Trãi được mời ra làm quan ban cho tước Vinh lộc Đại phu, Nhập nội Hành khiển Môn hạ sảnh Tả ty Hữu Gián nghị Đại phu kiêm Hàn Lâm viện Học sĩ Tri Tam quán sự Đề cử Côn Sơn Tư Phúc tự.

Vào năm Nhâm Tuất (1442) tại Lệ Chi Viên (huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay) đã xảy ra vụ án bi thảm gây chấn động lịch sử mà sử sách gọi là vụ án Lệ Chi Viên (vụ án vườn vải).

Ngôi đền thờ Nguyễn Trãi.

Ngày 27 tháng 7 (âm lịch) năm Nhâm Tuất (1442), Vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông, duyệt quân ở thành Chí Linh, Hải Dương. Nguyễn Trãi đón Vua ngự ở chùa Côn Sơn, nơi ở của Nguyễn Trãi. Ngày 4 tháng 8 (âm lịch) Vua về đến Lệ Chi Viên thuộc huyện Gia Định.

Cùng đi với Vua có Nguyễn Thị Lộ, một người thiếp của Nguyễn Trãi khi ấy đã vào tuổi 40 được Vua Lê Thái Tông yêu quý vì sự xinh đẹp, có tài văn chương, luôn được vào hầu bên cạnh Vua. 

Trước đây, Nguyễn Thị Lộ ra vào cung cấm, Thái Tông trông thấy rất ưa, liền cợt nhả với bà. Đến đây, Vua đi tuần về miền Đông, đến chơi nhà Trãi rồi bị bạo bệnh mà mất, cho nên Trãi bị tội ấy. Lời bàn: Nữ sắc làm hại người ta quá lắm.

Thị Lộ chỉ là một người đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó làm thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà được ư? (Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 2, tr. 356).

Các quan bí mật đưa về, ngày 6 tháng 8 (âm lịch) mới đến kinh sư, nửa đêm vào đến cung mới phát tang. Triều đình đã quy cho Nguyễn Thị Lộ tội giết Vua. Ngay sau khi Thái tử Bang Cơ mới 2 tuổi lên nối ngôi (tức là Lê Nhân Tông), triều đình bắt Nguyễn Trãi tru di tam tộc vào ngày 16 tháng 8 (âm lịch). Nguyễn Trãi và hơn 400 người trong gia tộc bị giết, Nguyễn Thị Lộ bị dìm chết dưới nước thả xuống sông Hồng.

Nỗi oan ngàn đời của nữ học sĩ tài danh chỉ vì mưu đồ của một phi tần?

Trong sách Đại Việt sử ký toàn thưKhâm định Việt sử thông giám cương mục viết, vua Lê Thái Tông chết là do phát bệnh, đây là một vụ án đầy oan khuất cho vợ chồng Nguyễn Trãi – Nguyễn Thị Lộ và 400 trăm người trong họ tộc của ông. Nhưng trái lại, sách Lịch triều hiến chương loại chí lại cho rằng, chính tay Nguyễn Thị Lộ đã đầu độc giết vua. Vậy đâu mới là sự thật?

Nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ.

Câu trả lời cho câu hỏi này đến tận ngày nay vẫn là vấn đề còn bỏ ngỏ trong giới sử học Việt Nam, và cũng đã từng gây ra không ít tranh cãi. Dù cho sau vụ án đó vài thập kỷ, thậm chí Lê Nhân Tông – con trai vua Lê Thái Tông đã lên tiếng đính chính cho rằng Nguyễn Trãi bị oan, sau khi đọc sách Dư địa chí do đại công thần này viết và đã có hành động ban chiếu minh oan. Nhưng sách cũng hoàn toàn không đề cập gì tới Nguyễn Thị Lộ, vậy liệu có phải vị vua này đã ngấm ngầm đồng ý với việc chính Nguyễn Thị Lộ đã giết chết tiên đế hay không?

Vẫn còn một giả thuyết khác, cho rằng, người lập ra âm mưu giết vua này không ai khác chính là Nguyễn Thị Anh – một phi tần của vua Lê Thái Tông và là mẹ ruột của Thái tử Ban Cơ, tức là vua Lê Nhân Tông sau này. Bởi lẽ, sử liệu cho rằng vợ chồng Nguyễn Trãi hay bảo vệ bà Lê Thị Ngọc Dao – một phi tần khác của Lê Thái Tông, cũng như đứa con trong bụng Ngọc Dao – người mà bà Nguyễn Thị Anh lo ngại sẽ đe dọa đến ngôi vị của con trai mình.

Trong lúc đó, lời đồn đại về danh tính thật sự của Thái tử Bang Cơ ngày càng nhiều. Người ta cho rằng Bang Cơ không phải con ruột của Lê Thái Tông vì bà Nguyễn Thị Anh đã có mang với người đàn ông khác trước khi vào cung. Thế là, nhân lúc Bang Cơ vẫn còn tại vị Thái tử, bà Nguyễn Thị Anh liền lập mưu giết vua, cùng với đó là giết luôn cả vợ chồng Nguyễn Trãi, như một mũi tên trúng hai con nhạn. Vua chết, Bang Cơ nghiễm nhiên theo di chiếu mà lên ngôi, lấy hiệu Lê Nhân Tông. Nhưng thật ra người nắm quyền hành chính lúc bấy giờ là Nguyễn Thị Anh, bởi Bang Cơ khi ấy chỉ mới có 2 tuổi.

Về sau này, khi Bang Cơ lớn, ông nhận ra Nguyễn Trãi và gia tộc bị giết oan nên đã lập chiếu minh oan. Còn về phần Nguyễn Thị Lộ, ông lại không nói gì. Phải chăng, nếu nói ra bà Thị Lộ cũng bị oan, thì tức là vua cha bị giết bởi một thế lực khác, vụ án sẽ tiếp tục là một ẩn số, và ai mới là người giết vua thực sự?

Tượng thờ Anh hùng dân tộc, Danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi và Nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ.

22 năm sau vụ án, Vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho Nguyễn Trãi. Riêng với bà Nguyễn Thị Lộ, ông chỉ phê một câu: “Bà Lễ nghi học sĩ không can dự vào tội giết Vua”.

Dẫu vậy, vụ án năm xưa mới chỉ kết luận Nguyễn Trãi vô tội, còn hung thủ là ai vẫn là dấu hỏi. Để hàng thế kỷ người đời vẫn băn khoăn giữa những hư thực của lịch sử. Còn về phía Nguyễn Thị Lộ, vốn là Lễ nghi học sĩ, giúp Vua hiểu biết thông tuệ, điều hành triều chính nhất mực tốt đẹp. Lại phải chịu nỗi hàm oan đầy cay đắng mang tội giết Vua, làm gia tộc nhà chồng và bản thân phải chết.

Dường như lịch sử đã quá bất công với Nguyễn Thị Lộ, một người phụ nữ tài sắc lại phải chịu tiếng oan khôn cùng. Mọi mũi rìu đều hướng về bà, đến khi nhiều kẻ dân gian thêu dệt câu chuyện rắn báo oán chỉ để giết bà. Gần 600 năm, chúng ta bất công với một người phụ nữ, chịu nỗi oan khiên “chuyển đất động trời”.

Đã hơn 5 thế kỷ trôi qua, thảm án Lệ Chi Viên vẫn là đề tài tranh cãi cho hậu thế. Nỗi đau day dứt về một mối oan của một gia tộc vì tội giết Vua, nhưng lớp sử sách ghi chép lại vẫn chỉ vừa hư vừa thực.

Chuyện “rắn báo oán” và bà Nguyễn Thị Lộ

Trong dân gian tương truyền một câu chuyện về vụ thảm án này như sau: Một hôm ông Nguyễn Phi Khanh (cha của Nguyễn Trãi) cho học trò phát cỏ trong vườn để cất lớp học. Đến đêm, ông nằm mộng thấy một người đàn bà dẫn bầy con nhỏ đến xin ông thư thả ít hôm, vì bận con mọn nên chưa kịp dời nhà, ông nhận lời.

Đến khi học trò của ông phát cỏ đập chết một bầy rắn con, lúc ấy ông mới hiểu ra ý nghĩa của giấc mộng, nhưng muộn rồi. Đêm đó khi ông ngồi đọc sách thì có con rắn bò trên xà nhà, nhỏ xuống 1 giọt máu thấm ngay chữ “tộc” qua 3 lớp giấy, ứng với việc gia tộc của ông bị hại đến 3 họ.

Ngày sau con rắn mẹ hóa kiếp là nàng Thị Lộ để làm hại 3 họ nhà ông. Đến đời Nguyễn, trong Lịch triều hiến chương loại chí lại có thêm chi tiết: Con rắn thành tinh ngầm mang thù oán, mới đầu thai thành Thị Lộ, nàng sinh ra dưới sườn có vảy… 

Câu chuyện truyền miệng mang đậm màu sắc liêu trai gắn với sự kiện thảm án một phần giải thích nguyên nhân tiền định về cái chết của Vua và việc gia tộc Nguyễn Trãi bị xử chém. Nhiều người tin rằng nó đúng và nhiều chi tiết khớp với lịch sử.

Nỗi oan khiên day dứt trăm năm của một người phụ nữ

Nhà giáo Hoàng Đạo Chúc là người nặng lòng với vụ án Lệ Chi Viên, ông cùng một số nhà nghiên cứu dày công biên soạn cuốn: Lễ nghi học sĩ Nguyễn Thị Lộ với thảm án Lệ Chi Viên (xuất bản năm 2004). Ông còn cùng nhiều người con yêu sử, yêu truyền thống gây dựng và chung tay giữ gìn những tư liệu quý về Lệ Chi Viên.

Khu di tích khang trang, luôn chào đón những vị khách thường xuyên tìm về với quá khứ. “Ôn cố tri tân”, nhớ về Nguyễn Trãi, đặc biệt cảm thương cho thân phận học sĩ tài hoa Nguyễn Thị Lộ năm nào.

Giữa những trầm luân của thời cuộc, một nỗi oan khuất lớn vẫn cứ treo lơ lửng trong lịch sử và nhân tâm đất Việt suốt 579 năm qua. Dù đã có một số nghiên cứu, hội thảo đã “minh oan” cho Nữ học sĩ Nguyễn Thị Lộ. Tuy vậy, tiếng oan trải dài cùng với lịch sử, nỗi đau đớn của bà vẫn còn day dứt với hậu thế.

Vì bà cũng là người tài hoa trong văn học, sắc sảo trong chính trị, chu đáo trong ứng xử và thủy chung trong tình nghĩa. Lớn lao hơn, bà còn là người đã dâng trọn cuộc đời phục vụ cho sự bền vững của vương triều Lê và sự phồn vinh của non sông Ðại Việt. Lẽ ra con người lịch sử ấy phải được tiếng thơm, được trân trọng…

Đứng trước ngôi đền thờ Nguyễn Trãi tại ngôi làng cổ này, tôi mông lung mường tượng ra hình ảnh cụ Ức Trai và nữ học sĩ bầu bạn văn chương. Nhưng, cảnh cũ, người nay đâu? Gần 600 như mộng dài ghi dấu những nỗi đau vẫn còn day dứt khôn nguôi.

Ngoài Lệ Chi Viên, khi đến thăm miếu thờ bà tại Khuyến Lương (Hoàng Mai), Hà Nội – tương truyền là nơi thi hài của bà trôi về đây được nhân dân lập đền phụng thờ. Ngôi miếu nhỏ, cạnh mé sông, không khí u tịch như vọng về những câu chuyện của quá khứ.

Trên cổng miếu có đôi câu đối nghe đầy chua xót: 

Dân gian mãi chịu nỗi hàm oan

Nhà vua đã giải oan cho kẻ mang tội

Bên trong là một tấm biển “Nữ học sĩ linh từ” (Đền thiêng thờ Nữ học sĩ), một trong ba nơi thờ phụng bà Nguyễn Thị Lộ. Khung cảnh u tịch có chút lạnh người, nhưng đến tận mắt chứng kiến mới cảm nhận những thanh âm của lịch sử về con người tài hoa, bạc mệnh vọng về.

Cách đây gần 600 năm, tương truyền người dân vớt được thi hài của bà sau khi bị hành hình trôi về đây. Dẫu vậy, trước khi phải tạm rời ra cõi đời này, bà đã phải chết trong đau đớn, oan ức và dèm pha một thời.

Ở  Lệ Chi Viên có biểu tượng “giọt lệ” bằng đá hoa cương được đặt trang trọng tại khuôn viên di tích, phải chăng đấy là giọt lệ của hậu thế xót thương cho nỗi oan khiên cho anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi và đặc biệt là bà Nguyễn Thị Lộ. Sâu xa hơn nhắc nhở chúng ta về quá khứ, về trái tim nhân hậu biết tha thứ, biết hiếu nghĩa, biết đúng sai.

một tấm bia khắc bằng chữ Việt “Đức bà Nguyễn Thị Lộ, Lê triều Lễ nghi học sĩ – Nữ lưu đệ nhất công thần”

Vụ án Lệ Chi Viên giống như “món nợ” của lịch sử, đối với anh hùng dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Trãi và đặc biệt bà Nguyễn Thị Lộ, cho đến tận gần 600 năm sau, hậu thế vẫn chưa thôi day dứt cho những bậc tài hoa kiệt xuất nhưng bạc mệnh. 

Viết một bình luận