Bi kịch chốn hậu cung: Từ nàng công chúa danh giá đến ép gả rồi tư thông cùng người tình

Một câu chuyện tình ngang trái là như thế nào? Là cha mẹ ngăn cấm không cho đôi trẻ đến bên nhau? Là hai chàng cùng yêu một nàng nhưng người quyền thế luôn có quyền hơn? Là ép gả cho người mình không yêu để rồi nhận lấy kết cục đau khổ sau này? Vâng, đây chính là chuyện tình đời bi thảm của Thiên Thụy Công Chúa – một công chúa dưới thời nhà Trần. 

Không có quá nhiều tư liệu chính sử đề cập đến nàng công chúa này, chỉ biết nàng là Hoàng nữ – con gái của vua Trần Thánh Tông và là chị gái của vua Trần Nhân Tông. Không rõ thân mẫu của nàng là ai, có người đồn đoán rằng là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng hậu Trần Thị – con gái thứ năm của An Sinh vương Trần Liễu và là em gái của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn. Cũng có người nói nàng Thiên Thụy là con thân sinh của Cung phi Ngọc Lan.

Mối tình say đắm của Thiên Thụy Công Chúa cùng với Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư đã trở thành bi kịch khi Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn – con trai của Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng đem lòng say mê công chúa Thiên Thụy. Người bị ép gả, kẻ bị cắt đứt tình yêu, trong vòng luẩn quẩn tình cảm này, đến sau cùng thì Công chúa Thiên Thụy vẫn là người chịu nhiều khổ đau nhất. 

Chuyện tình đắm say giữa nàng công chúa và chàng tướng quân

Ghi chép về công chúa Thiên Thụy khá là vắn tắt, những thông tin về nàng chủ yếu là câu chuyện tình với Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư khi được Trần Thái Tông nhận làm “Thiên tử nghĩa nam”. 

Trong Chiến tranh Nguyên Mông – Đại Việt lần thứ nhất, Trần Khánh Dư được biết đến là một vị tướng trẻ tài ba, có công lao lớn trong việc nhân sơ hở mà đánh úp quân giặc. Sau đó, ông lại mang quân tiến đánh người Man ở vùng núi, lại thắng lớn nên được Thái thượng hoàng Trần Thái Tông nhận làm con nuôi, phong làm Phiêu Kỵ đại tướng quân (theo lệ thường nhà Trần thì chức này chỉ phong cho Hoàng tử), đồng thời ban cho ông làm Nhân Huệ vương. 

Cũng nhờ đó mà ông có đặc quyền ra vào cung cấm một cách tự do, rồi gặp được nàng công chúa Thiên Thụy vừa xinh đẹp lại đoan trang dịu dàng. Hai người không ít lần chạm mặt nhau nơi cung cấm, cảm mến sự anh dũng của Trần Khánh Dư nên công chúa Thiên Thụy đã đem lòng yêu chàng tướng quân khi nào chẳng hay. Còn chàng cũng đã có ý cùng nàng nhưng chưa dám ngỏ, nên chẳng bao lâu sau, hai người đã yêu thương say đắm. Tuy sự cách biệt tuổi tác của hai người cũng khá lớn, bởi thời điểm ấy để có được công trạng như thế thì ít nhiều Trần Khánh Dư cũng phải ngang tuổi cùng Trần Thánh Tông. Nhưng với hai người yêu nhau, đó lại chẳng được xem là khoảng cách.

Bi kịch: Yêu một người nhưng lại ép gả cho một người 

Những tưởng câu chuyện “tình chàng ý thiếp” giữa công chúa và tướng quân sẽ đi đến hồi kết viên mãn nhưng trớ trêu thay khi Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn – Con trai Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn cũng mê đắm vẻ yêu kiều của Thiên Thụy công chúa. Dù biết nàng đã có một tình yêu ngọt ngào cũng Trần Khánh Dư, nhưng Hưng Vũ vương vẫn dùng uy thế của mình, một lòng cưỡng ép công chúa gả cho mình và xin cha hỏi cưới nàng về làm thê tử. 

Hưng Đạo vương vì thương con nên cũng dạm hỏi xin cưới công chúa Thiên Thụy cho con trai của mình. Và Trần Thánh Tông chẳng thể nào từ chối lời đề nghị ấy khi đối diện là trụ cột triều đình – Trần Quốc Tuấn nên vua Trần Thánh Tông đã hứa gả. Đã từng có một thời gian dài không đồng ý, quyết liệt thể hiện thái độ của mình nhưng nàng công chúa ấy vẫn chẳng thể nào cãi lại ý mệnh của cha nên nàng đành bước lên kiệu hoa về với Hưng Vũ vương. Về phần Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư, công chúa vẫn chưa thể dứt được tình nên cả hai vẫn âm thầm lén lút gặp gỡ nhau đến khi câu chuyện trái luân thường bị phát giác. 

Chuyện vỡ lở, một mặt sợ cha con Hưng Đạo vương tức giận, mặt khác là thương cảm cho tình cảnh của chị gái và tiếc người tài nên vua Trần Nhân Tông đã quyết định vờ ban lệnh đánh chết Trần Khánh Dư tội thông dâm và dặn lính không được đánh chết, chính nhờ thế mà vượt qua 100 roi nhưng tướng quân vẫn sống. Theo đạo luật thời đó, qua 100 roi mà vẫn có thể sống sót chính là trời tha nên Trần Khánh Dư thoát tội chế. Tuy bị xử nhẹ thoát tội chết nhưng lại bị phế truất và tịch thu toàn bộ gia sản, Trần Khánh Dư chỉ đành trở về quê nhà cũ ở Chí Linh – ngày ngày đội nón lá mặc áo ngắn hành nghề bán than. Còn công chúa Thiên Thụy thì bị đưa về một tẩm cung riêng, không còn bất kỳ quan hệ gì với Hưng Vũ vương Trần Quốc Nghiễn. 

Năm 1282, quân Nguyên lại lăm le xâm lược nước Đại Việt, vua nhà Trần mở ra một cuộc hội nghị ở Bình Than cùng quan triều thần bàn kế chống giặc. Lúc đó, thuyền vua đỗ ở bến Bình Than, nước triều rút, gió thổi mạnh, có chiếc thuyền lớn chở than củi, người lái thuyền đội nón lá, mặc áo ngắn. Vua chỉ và bảo quan thị thần: “Người kia chẳng phải là Nhân Huệ vương đó sao?”. Trong lúc đang cần một tướng giỏi để cầm quân đánh giặc nên ngài mừng rỡ sai người chèo thuyền nhỏ đuổi theo và triệu kiến Trần Khánh Dư đến. 

Vua ban áo ngự, cho ngồi các hàng dưới các vương, trên các công hầu, cùng bàn chuyện nước. Ông được Trần Nhân Tông phục chức và phong làm Phó đô tướng quân trấn giữa Vân Đồn. Khánh Dư có công lớn trong việc đánh tan đạo binh thuyền chở lương thực, khí giới của quân Nguyên do Trương Văn Hổ chỉ huy vào tháng 12 năm 1287, góp phần làm xoay chuyển tình thế chiến tranh. 

Sau khi về lại Thăng Long, Trần Khánh Dư và công chúa Thiên Thụy lại có thêm cơ hội gặp mặt, hai người lại quấn quýt chẳng rời. Theo “Đại Việt Sử ký toàn thư” có ghi chép lại: “Trần Khánh Dư lại không sửa hết lỗi lầm”, chắc hẳn là chỉ mối quan hệ giữa Khánh Dư và Thiên Thụy, suy cho cùng, vị tướng lĩnh người người ngưỡng mộ kia cũng chỉ là một thanh niên – anh hùng sao qua nổi ải mỹ nhân. 

Từ công chúa trở thành ni cô

Giấy làm sao gói được lửa, câu chuyện tình “vụng trộm” của hai người vẫn bị phát giác, vì để giữ thể hiện cho hoàng tộc, Trần Nhân Tông khuyên chị gái hãy xuất gia để tránh điều tiếng của thiên hạ. Chẳng còn cách nào khác, Thiên Thụy công chúa đành bỏ lăng la tơ lụa, lui về một vùng quê hẻo lánh ven sông Văn Úc xuất gia năm 1284. Thiên Thụy công chúa đến một mảnh đất ven sông Văn Úc chọn một gò đất cao lập am tu hành, nàng quyết tâm chôn chặt mối tình say đắm nhưng đầy nỗi oan nghiệt cùng Khánh Dư. Tại đây, nàng lập điền trang trồng cấy lương thực, mở chợ, quy tụ dân trong vùng đến làm ăn sinh sống, hình thành nên trang Nghi Dương. Còn am nhỏ ngày trước cũng được nàng dựng thành chùa. 

Sau khi dẹp đi những suy nghĩ trần tục tình yêu nhi nữ, nàng công chúa dành nhiều sự quan tâm hơn cho dân chúng. Nàng cấp cứu chẩn bần, đem kiến thức của mình giáo hóa nhân dân, khuyến khích dân khai hoang, phát triển nông trang, lập thêm làng. Những năm thiên tai mất mùa, Thiên Thụy còn khẩn xin vua miễn thuế cho năm xã trong vùng. Trong thời gian tu hành, bà trồng một cây gạo với ước nguyện nhân dân lo đủ, thóc gạo dồi dào. Sau bà trở thành ni sư nổi tiếng với pháp danh Thiền Đức đại ni.

Tháng 10 âm lịch năm Mậu Thân (1308), Thiên Thụy công chúa ốm nặng và Trần Nhân Tông lúc bấy giờ đã trở thành Thái thượng hoàng tu trên núi Yên Tử đã xuống núi thăm nàng. Thượng hoàng nói rằng: “Nếu chị đã đến ngày đến giờ thì cứ đi, thấy âm phủ có hỏi thì trả lời rằng: Xin đợi một chút, em tôi là Trúc Lâm đại sĩ sẽ tới ngay”. Đến mùng 3 tháng 11 cùng năm (tức ngày 16 tháng 12 năm 1308 dương lịch), Thiên Thụy công chúa mất, cùng ngày hôm đó, Nhân Tông cũng băng hà. Vì để tưởng nhớ công ơn của nàng công chúa lúc sinh thời nên các triều đại sau này cũng phong cho nàng là Ả nương Thiên Đức Thiên Thụy công chúa. 

Qua câu chuyện tình ngang trái của nàng công chúa, ta mới thấy rằng – Nữ nhi phong kiến từ khi sinh ra đã được định sẵn con đường trưởng thành, có mấy người có thể làm được việc theo ý mình. Bản thân có thể ở trong nhung gấm lụa là, thưởng biết bao nhiêu kim ngân châu báu cùng vinh hoa phú quý nhưng đến cuối đời có mấy người được vui vẻ tự nguyện. Một kiếp truân chuyên của đời người, ở chặng cuối của nhân sinh thì con người ta lại chọn quay về với Phật và nàng công chúa Thiên Thụy cũng như thế. Đến cuối đời vẫn phải nương nhờ chốn thanh tịnh mà rũ bỏ mọi khổ đau phàm trần, chỉ có thế mới mong tần hồn được bình yên.

Viết một bình luận