Nguyễn Khuyến cùng những giai thoại chưa kể: “bán chữ cho quan tham”, “vẽ bùa trấn yểm”,…

Tên thật của Nguyễn Khuyến là Nguyễn Thắng, hiệu là Quế Sơn, tự Miễu Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835, tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Nhưng quê nội của ông lại ở làng Vị Hạ (tục gọi là làng Và), xã Yên Đổ nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. 

Cụ Nguyễn Khuyến là người có chí lớn, ngay từ bé đã nuôi chí học hành để cứu dân giúp đời và hiển nhiên “trời không phụ người có lòng” khi ông đã đạt được vinh danh cao nhất trong sự nghiệp thi cử là đỗ đầu cả ba kỳ thi (Hương, Hội, Đình). Tuy nhiên, đỗ đạt làm quan rồi ông mới nhận ra sự chán ngán đối với chốn quan trường khi đối diện với thế sự không đường lui: Thực dân Pháp thì đang thẳng tay chiếm dần nước ta, trong khi đó triều đình Huế lại chẳng dám hành đồng gì mà gần như hèn nhát cam chịu. 

Có lẽ vì thế mà chỉ được 10 năm sau khi giữ chức quan, Nguyễn Khuyến quyết định cáo lão hồi hương – về quê làm thầy dạy học, có thời gian thì ngâm thơ ngắm cảnh. Bình bình thản thản giữa chốn đồng quê yên ả cùng với xóm giềng vui vẻ, đôi khi ngẫu hứng viết vài câu đại tự hoặc cho bà con trong làng những câu đối vui tươi hay hàm ý chúc mừng…..Việc này có lẽ sẽ rất bình thường đối với những người đạt khoa danh như cụ, tuy nhiên, điểm đặc biệt ở đây chính là: Mỗi lần cho câu đối của cụ, lại xuất hiện một giai thoại vô cùng kỳ thú.

Tranh vẽ cụ Nguyễn Khuyến mặc áo quan treo trong từ đường tại quê nhà cụ.

Tài vẽ bùa “trấn yểm”

Cuốn sách “Nguyễn Khuyến và giai thoại” do Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam ấn hành năm 1987, được Bùi Văn Cường sưu tầm cùng biên soạn thuật lại rằng: 

Ở một ngôi làng nọ bất ngờ xảy ra một trận hỏa hoạn lớn, thiêu rụi cả đình làng. Người dân cùng nhau xây dựng lại, đến khi đình được dựng xong, vị kỳ mục trong làng đến nhà và xin cụ Tam Nguyên mấy chữ về treo, ngụ ý trấn thần hỏa. Vì người dân trong làng tin rằng, cụ Tam Nguyên là một vị thần sống, vậy nên, chữ của cụ có khả năng lay động được cả thần linh. 

Im lặng nghe những người đến xin chữ thuật lại sự tình, cụ không nói hai lời mà liền lấy bút đại tự viết lên tấm vải lụa điều một chữ “NHẤT” vô cùng lớn, hai đầu phình to ra còn chính giữa thì thót lại. Cụ còn dặn người dân rằng, khi đem về phải treo ngược lên giữa cửa đình. Mọi người ngơ ngác nhìn nhau, chẳng ai hiểu chuyện gì và ý nghĩa của việc làm này là như thế nào nhưng cũng chẳng ai dám ý kiến hay luận bàn, mà nhất nhất làm theo lời dặn của cụ. 

Thật lâu sau đó không hề xảy ra hỏa hoạn nữa nên người ta càng tin rằng, đó chính là sự nhiệm màu đạo bùa của thầy Tam Nguyên. Vậy nên, cả làng không ai nói ai mà thống nhất mang lễ đến nhà và còn cử cả quan viên đến để tạ ơn thầy. Hôm ấy, có người đánh bạo mà hỏi thẳng cụ Tam Nguyên ý nghĩa của chữ “NHẤT” được treo ngược giữa cửa đình. Nghe vậy, cụ chỉ cười nhẹ và nói: 

“Các ông thấy chữ “NHẤT” ấy có giống cái chày không?”.

Đám người cũng gật gù mà bảo giống. Lúc ấy, cụ mới cười rộ lên rồi lại thủng thỉnh đáp: 

“Cái chày mà treo đứng là “chày đứng”. Chày đứng là đừng cháy. Có thế thôi!”

Cổng vào nhà cụ Nguyễn Khuyến với câu đối và đại tự do chính cụ đặt ra lúc sinh thời.

Bán chữ cho quan tham

Từ khi từ bỏ chức quan, cáo lão hồi hương để sinh sống những chuỗi ngày bình thường cùng thôn xóm, dân chúng trong vùng thường hay đến chỗ thầy để mà xin chữ, xin câu đối, vì kính ngưỡng học vấn cùng với chữ nghĩa của cụ. Trong số những đối tượng đến chỗ thầy xin câu đối, xin hoành phi, có người có lòng thành thực thì cũng có không ít kẻ xin chỉ vì thói hãnh tiến mà thôi. Bình sinh cụ vốn ghét những bọn tham quan, chỉ biết sống dựa vào Tây mà giở thói hà hiếp dân lành nên không ít lần cụ sử dụng vốn chữ nghĩa của mình mà chửi đám quan này khi chúng tới xin câu đối. 

Quyển “Nguyễn Khuyến và giai thoại” có ghi chép lại một giai thoại như này về việc cụ dùng phép chiết tự để mắng tên quan tri huyện Thanh Liêm khi y tìm đến cụ xin một bức hoành phi. 

Bản tính vừa tham lại vừa keo kiệt nhưng tên quan lại thích thể hiện sự sang trọng của bản thân, vì để tỏ ra mình là một tay biết chơi chữ chơi nghĩa, nên nhân dịp có việc đi ngang làng mà hắn rẽ ngang nhà cụ Nguyễn khuyến để xin cụ viết cho mình mấy chữ mang về huyện đường treo. 

Quá rõ bản chất của tên quan lại này nên cụ chẳng ngần ngại hay úp mở gì mà nói ngay: 

“Được, chữ thì có nhưng đắt đấy! mỗi chữ mười quan. Thầy cần mấy chữ, cứ việc tính tiền ra mà lấy”

Viên quan tri huyện xót tiền nên nghe thế thì giật phẳng người nhưng biết làm sao được khi chót ngỏ lời rồi, đâu thể nào chạy làng còn bức hoành phi lại chẳng thể nào xin không nổi một chữ. Cuối cùng, y chỉ đành cắn răng nhịn đau mà xin lấy hai chữ. Cụ hẹn ngày mai cho người mang đủ tiền đến thì lấy về. Viên quan về nhà thuật lại mọi chuyện cho vợ nghe, mụ vợ giãy nảy cả lên: 

“Thôi chết! Chỗ nào chứ chỗ cụ Tam Nguyên, ông làm thế chỉ tổ lòi tính keo kiệt ra, người ta khinh cho. Này nhé, hoành phi 2 chữ là ít nhất, người ta cũng thường xin thế. Nhưng đằng này khác: cụ đã ngã giá trước mà mình chỉ xin có hai chữ, có phải rõ ra mình bủn xỉn, tiếc tiền không?”.

Nghe vợ phân tích như thế tên quan viên kia mới vỡ lẽ ra là mình dại nên đành bấm bụng mà thêm 20 quan, sai người mang tổng là 40 quan xuống xin cụ cho hẳn bốn chữ. Dù rất xót tiền nhưng bù lại được nở mày nở mặt vì nhận được bốn chữ rất hay từ cụ “THIÊN LÝ LƯƠNG NHÂN” được tạm dịch là “nghìn dặm người tốt”.

Nghĩ đến bản thân mình là một quan phụ mẫu, bức hoành phi như thế có khác nào là tiếng tốt bản thân được người ta đồn xa đến nghìn dặm. Ấy thế nên, vợ chồng tên quan tri huyện rất cao hứng và vui mừng, bèn nhờ một người chọn gỗ tốt, sau đó thuê thợ về khắc ngay.

Trên nền đất của “Vườn Bùi chốn cũ” ngày nay một tòa nhà gỗ 5 gian được con cháu xây dựng làm từ đường thờ tự tổ tiên và tưởng niệm cụ Tam Nguyên.

Ít lâu sau đó thì không biết anh chàng học trò lỡ lời thế nào lại bị một đám quan sai nọc ra giữa công đường mà đánh. Đánh đau, nên anh học trò mới hậm hực trong lòng, vừa quay ra đi vừa ngoái cổ lại nhìn bức đại tự mà tự mình lẩm bẩm: “Hèn gì mà cụ Tam Nguyên chẳng chửi cho! Đáng kiếp”.

Vị quan kia nghe thấy thì chột dạ trong lòng mà kêu anh học trò dừng lại để dò hỏi ý nghĩa của câu nói vừa rồi. Nhưng anh học trò đó không đáp ngay mà chỉ hỏi lại: “Cụ Tam Nguyên chửi quan mà quan không biết”. Thế là, ông quan ấy phải nài nỉ anh học trò tận mấy lần, sau lại phải móc hầu bao cho anh ta vài quan tiền làm lộ phí thì anh ta mới nguyện ý giảng giải cho. Thì ra, “THIÊN LÝ LƯƠNG NHÂN” mang một ý nghĩa sâu xa khác có ý chửi quan là “trọng chức”, cũng cùng nghĩa là tham ăn. Bởi chữ “Thiên” mà đặt trên chữ “Lý” tì thành ra là chữ “Trọng”, còn chữ “Nhân” mà đtặ trên chữ “Lương” lại là chữ “thực”. 

Câu đối vô tiền khoáng hậu

Lại có chuyện về một anh làm nghề canh giữ chợ, vừa dành được chút tiền để mua một chức phó lý và dựng lại được một ngôi nhà mới khang trang hơn, vừa gần chợ vừa gần sông. Gần đến ngày tân gia, anh chàng nọ đã mon men tới nhà cụ Tam Nguyên để xin cụ một câu đối treo trong nhà. Vốn bản thân biết được dăm ba câu chữ Hán nên anh chàng bạo gan xin cụ một câu đối bằng chữ Hán luôn. 

Được cho chữ nên anh chàng rất hưng phấn mà mang về khoe vợ, nào ngờ, vợ lại trách mắng, hỏi tại sao không xin một câu đối chữ Nôm cho dễ hiểu, bày đặc bày điều chi ba chữ Hán. Thế là, chẳng đợi anh chồng phân bua hay thỏa thuận lấy một câu, người vợ gần như ngay lập tức chạy đến nhà cụ Tam Nguyên để thưa lại sự việc và xin lại câu đối chữ Nôm. Nghe đến câu chuyện ngộ nghĩnh của đôi vợ chồng, cụ cũng vờ làm bộ dạng khó khăn mà nói: 

“Lôi thôi nhỉ! Anh thích chữ, chị thích nôm, khó chiều quá! Thôi thì thế này là vừa cả lòng anh, lòng ả”

Nói thế rồi cụ kêu người mang giấy bút ra để mà ghi lại: 

“Nhất cận thị, nhị cận giang, thử địa tịch tằng xưng tị ốc

Giàu ở làng, sang ở nước, nhờ trời nay đã vểnh râu tôm”

Cái hay của câu đối này chính là: Ở đầu mỗi câu đều có một câu tục ngữ, một vế chữ Hán cùng với một vế chữ Nôm nhưng lại đối nhau nghe chan chát. “Làng” đối với “thị”, “Giang” đối với “Nước”, đã thế ở những câu cuối lại còn có hai vế: “Xưng tị ốc (có nghĩa là ngày xưa cũng từng thịnh vượng như ai) với “vểnh râu tôm” – Đại ý vừa nói được nỗi mừng lại vừa tả được sự hãnh diện của vợ chồng anh coi chợ.

Viết một bình luận