Những hình ảnh quý hiếm về buổi lễ tế Nam Giao của Vua Bảo Đại năm 1942

Vào tháng 6 năm 2010, trong tuần lễ diễn ra Festival Huế 2010. Trong chương trình Festival có phần lễ hội Nam Giao – một phần của lễ tế Nam Giao xưa. Nhiều đọc giả yêu mến lịch sử và tìm tòi về giá trị truyền thống khi xưa đều muốn biết về lễ tế Nam Giao là gì? 

Lễ tế Nam Giao

Lễ tế giao thường gọi lễ tế Nam Giao, là nghi lễ tế trời do vị quân chủ của một nước theo văn hóa Trung Hoa Khổng giáo tiến hành. Đây là nghi thức được xếp vào hàng Đại tự (lễ lớn) và là lễ tế linh thiêng bậc nhất của các triều đại phong kiến – quân chủ ở Đông Á. 

Nghi lễ tế giao gắn liền với Hoàng đế, vì vậy có thể phỏng đoán lễ tế giao bắt đầu được thực hiện tại Việt Nam từ nhà Đinh khi Đinh Bộ Lĩnh lên ngôi, xưng là “Hoàng đế”, lần đầu tiên đặt niên hiệu để sử dụng rộng rãi ở Việt Nam. Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại chi tiết đầu tiên nhắc tới đàn tế giao vào năm 1154, vua Lý Anh Tông cho đắp đàn Viên Khâu phía nam La Thành

Từ thời Lê trở đi, việc tế Nam Giao được triều đình rất coi trọng, vua trực tiếp tế Nam Giao. Trong khi hành lễ tế Nam Giao bất kỳ một sơ sẩy nào cũng được coi là điểm gở. Trong lịch sử tế Nam Giao, có 2 lần sự cố xảy ra trong khi hành lễ. Sự cố thứ nhất là vào năm 1403, khi Hồ Hán Thương dâng rượu tế Nam Giao, tay run đánh đổ rượu xuống đất đã huỷ bỏ lễ tế Nam Giao năm ấy. Sự cố thứ 2 vào năm 1572, vua Lê Anh Tông khi làm lễ tế Nam Giao đã đánh đổ lư hương nên phải đổi niên hiệu từ “Chính trị” sang niên hiệu “Hồng Phúc”

Ngô Sĩ Liên và Nghiên Nhân Thọ làm chức Đô ngự sử đã dựa theo học thuyết chính thống của Nho giáo mà khuyên vua Lê Thánh Tông không nên tế giao vì Đại Việt vốn chỉ là phiên thần của Trung Quốc, phải là thiên tử Trung Hoa mới có quyền tế giao. Vua Lê Thánh Tông nói rằng việc tế giao là theo lệ cũ của tổ tông và đã mắng hai người rất gay gắt, cho họ là “bọn gian thần bán nước”. Điều này thể hiện rõ tư tưởng đế vương, ngang hàng với hoàng đế Trung Hoa của các vua Đại Việt.

Khi Vua Lê còn đang ở hành cung Vạn Lại, chống nhau với nhà Mạc đã cho lập đàn Nam Giao để tế trời nhằm khẳng định sự chính thống của triều đại mình, rằng các Vua Lê mới là thiên tử được thừa kế đất nước, không phải Vua Mạc.

Đến thời Lê Trung Hưng, chúa Trịnh nắm thực quyền, thế lực lấn át vua Lê, tuy nhiên vào lễ tế Giao thiêng liêng bậc nhất thì vua Lê vẫn là người có địa vị cao nhất, vì chỉ bậc thiên tử mới được đứng ra chủ tế. Sang thời Tây Sơn vẫn duy trì việc tế Nam Giao ở kinh đô Phú Xuân. Đàn Nam Giao triều Tây Sơn còn là nơi công bố, niêm yết khi thay đổi niên hiệu. Năm 1801, vua Quang Toản bỏ Phú Xuân chạy ra Bắc thành (Thăng Long) cho đắp gò Viên Khâu ở ngoài cửa Liễu Thị, xây đàn Phương Trạch ở trên Tây hồ, đến ngày đông chí, hạ chí thì tế thiên địa ở hai nơi ấy.

Đến nay, ở Việt Nam còn lại dấu tích của bốn đàn Nam Giao là Đàn Nam Giao Thăng Long, Đàn Nam Giao nhà Hồ, Đàn Nam Giao nhà Tây Sơn và Đàn Nam Giao triều Nguyễn, không kể Đàn Kính Thiên được phục dựng ở cố đô Hoa Lư.

Năm 1942, vua Bảo Đại – vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ trong lịch sử Việt Nam đã thực hiện lễ tế Nam Giao, đây cũng là lễ tế cuối cùng trong lịch sử nước ta.

Lễ tế Nam Giao

Đoàn ngự giá thời vua Bảo Đại trong lễ tế ngày đó:

Đạo ngự cổ kính của nhà vua qua khỏi cây cầu mới làm bằng xi-măng và sắt thép. Năm chú voi ngự quấn vải thêu rồng hình uốn lượn, chỉ kim tuyến lấp lánh trên nền vải đỏ. Một viên quản tượng ngồi trên lớp da cổ voi dày cộm. Một người khác cầm lọng đứng trên lưng voi. Các ngự lâm quân với binh phục trắng thắt đai điều đi hai bên. Màu trắng binh phục thật hài hòa với màu đỏ quấn trên mình voi.

Lễ tế Nam Giao năm 1942 – Kiệu vua Bảo Đại rời khỏi Ngọ Môn

Tiếp sau, các ông đô thống diễu hành giữa hai đội quân lính cầm cờ thêu biểu tượng của vũ trụ học Trung Hoa. Đi giữa là lá cờ rất lớn màu xanh viền vàng mang hình chòm sao Bắc Đẩu. Người này cầm phiến, kẻ kia cầm cờ, cờ đuôi nheo, trên ấy thêu chữ những kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, phong, vân, lôi, vũ, hay những con vật tượng trưng. Ngự đạo với lễ phục lộng lẫy vẽ nên một dải đỏ, xanh, vàng rực rỡ dưới ánh nắng mai. Các nhạc công, lính cầm đèn lồng, gươm, cờ Mao tiết, người thổi sáo, lọng vàng, cán đỏ.

Kiệu vua Bảo Đại
Xe ngựa kéo của nhà vua

Tiếp đến sáu con ngựa kéo chiếc Long đình xa của vua Bảo Đại phủ rợp những phiến thêu rồng mây, chữ Phúc, Thọ. Nhiều người khiêng trên tay một chiếc long đình đặt lễ phục của vua cùng với hương án, ghế ngai. Tất cả các thứ ấy lắc lư dưới bóng những chiếc lọng lớn màu da cam. Hai cỗ mã ngự khoác gấm vàng. Chiếc xe kéo thếp vàng của Nhà vua. Cuối cùng, nhấp nhô trên làn sóng đỏ của lính loan giá, chiếc Long liễn của nhà vua được che bọc bởi những chiếc đại phiến (quạt lớn) và tàn lọng. Ngồi sau lớp kính trong, nhà vua mặc hoàng bào, thanh thản tiếp nhận sự tôn kính của thần dân đang chen chúc dài theo ngự đạo trong suốt cái ngày đại lễ ba năm mới có một lần ở cái xứ châu Á cổ xưa này.

Kiệu vua Bảo Đại

Ngự đạo được khép lại sau đoàn các Hoàng thân Tôn tước và các Đại thần ngồi trên xe kéo. Phẩm phục các vị mặc màu đỏ, tía, tím, xanh, hoa cà giống như một dấu dẫn nhịp trong luồng nhạc quang sinh động.

Ngự liễn của nhà vua và đoàn tùy tùng

Lạc vào khung cảnh lễ tế Nam Giao qua chia sẻ của Nguyễn Đắc Xuân

Tuy nhiên, để có thể hiểu hết và cảm nhận không khí của lễ tế Nam Giao ngày ấy, mời quý bạn đọc cùng theo dõi bài viết của Nguyễn Đắc Xuân về lễ tế Nam Giao năm 1942 của vua Bảo Đại:

Tế Nam Giao là một “lễ hội” lớn thời quân chủ ở Huế. Nó nổi tiếng và được nhắc nhở qua các thời kỳ lịch sử không những vì nó lớn, mà còn vì tính nhân văn của cuộc lễ ba năm mới có một lần ấy. Tài liệu về lễ tế Nam Giao rất phong phú, có thể tìm thấy trong Đại Nam Hội Điển Sự Lệ (Bộ Lễ), tạp chí Nam Phong (10/4/1918) hoặc trong một sổ sách của các nhà nghiên cứu Đỗ Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề (Những Đại lễ và Vũ khúc của vua chúa Việt Nam, Hoa Lư, SG 1969), Bửu Kế (Đại học số 37/2/1964), Lê Văn Hoàng (Lễ tế Nam Giao, Huế 1971), Lê Văn Phước (Sự tích đàn Nam Giao…Luận văn Cao học, 1972) v.v…

Nhiều học giả, tác giả nước ngoài cũng đã nghiên cứu và viết về lễ tế Nam Giao đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH), trong Indochine Hebdomadaire Illustré. Bài bút ký La Ville en Fête, Le Nam Giao 1942 (Thành phố ngày hội, Lễ tế Nam Giao năm 1942) của ông A.De Rotalier đăng trên Indochine Hebdomadaire Illustré (số ra ngày 16/4/1942) là một trong những bài của người nước ngoài viết được độc giả rất quan tâm.

Ông A.De Rotalier có kiến thức về lễ tế Nam Giao, lại biết trân trọng văn hóa phương Đông, và muốn tìm một sự hòa hợp Đông Tây cho cuộc sống hiện đại nên ông đã thấy được cái tính nhân bản trong lễ tế Nam Giao. Cái nhìn của A.De Rotalier gần với cái nhìn của người Việt Nam đang hướng đến sự hội nhập hôm nay. Vì thế tôi cố nhập vào hồn cây bút A.De Rotalier để chuyển ngữ bài viết của ông.

Trong bài viết, A.De Rotalier có sử dụng một số tư liệu Hán-Việt, khi chuyển ngữ tôi không chuyển những tư liệu ấy từ Pháp sang Việt mà thay vào đó là những tư liệu gốc chuyển trực tiếp từ Hán Việt sang Việt. Và, cũng xin lưu ý thêm: A.De Rotalier là một người Pháp viết báo, ông đã giản lược nhiều chi tiết trong lễ tế Nam Giao. Độc giả nào muốn có đầy đủ tư liệu về lễ tế Nam Giao nên tìm đọc những tư liệu tôi giới thiệu ở trên.

Trong không khí còn ngậm hơi sương mờ ảo ban mai, thành phố Huế đã rộn ràng náo nhiệt. Bởi vì dân chúng đang chờ đợi ngày lễ Nam Giao quan trọng ba năm mới diễn ra một lần. Ghe thuyền từ các nơi chèo về làm cho con sông Hương êm đềm trở nên sôi động. Mái chèo đưa đẩy nhịp nhàng hướng lên phía trước, con thuyền lướt nhẹ ngược với cái bóng của chính nó in trên mặt nước lặng lờ.

Ở cái bùng-binh đầu cầu Trường Tiền mấy cái long đình (table-autel) che màn lụa với bộ khung kết bằng lá cây, trên nóc có hai con rồng bằng rơm và lá hoa đá nhe nanh múa vút. Màn lụa nhiều màu nhưng nổi bật nhất là màu vàng. Các long đình tôn trí các bài vị lấp lánh ánh bạc, vàng và đồng.

Hoàng hậu Nam Phương chụp hình kiệu vua Bảo Đại đi qua. Bà đi cùng với các con và cháu gái của mình; ở bên phải Hoàng Hậu là bà Bá tước Didelot, chị gái của bà. Lễ tế giao tuyệt đối không cho nữ giới tham dự

Cờ Pháp Nam nhiều màu phấp phới khắp nơi.

Những rặng dừa im lìm dang rộng những cành lá hiu hiu trước làn gió nhẹ. Dân chúng chen nhau trong ánh mai đang dần lên. Bỗng nổi lên những hồi trống vang vọng át hẳn những tiếng ồn ào của dân chúng hiếu kỳ. Ở bờ sông bên kia lô nhô những lọng tàn (parasols), kiệu cán (palanquins).

Kiệu vua Bảo Đại

Rồi chỉ vài phút sau, Đạo ngự (cortège impérial) cổ kính của nhà vua qua khỏi cây cầu mới làm bằng xi-măng và sắt thép. Năm chú voi ngự quấn vải thêu rồng hình uốn lượn, chỉ kim tuyến lấp lánh trên nền vải đỏ. Một viên quản tượng (cornac) ngồi trên lớp da cổ voi dày cộm. Một người khác cầm lọng đứng trên lưng voi. Các ngự lâm quân với binh phục trắng thắt đai điều đi hai bên. Màu trắng binh phục thật hài hòa với màu đỏ quấn trên mình voi.

Tiếp sau, các ông đô thống diễu hành giữa hai đội quân lính cầm cờ thêu biểu tượng của vũ trụ học (cosmographie) Trung Hoa. Đi giữa là lá cờ rất lớn màu xanh viền vàng mang hình chòm sao Bắc Đẩu (Grande Ourse).

Cờ Đại Hùng Tinh, lá cờ chứa các chòm sao chiêm tinh

Người này cầm phiến, kẻ kia cầm cờ, cờ đuôi nheo (oriflamme), trên ấy thêu chữ những kim, mộc, thủy, hỏa, thổ, phong, vân, lôi, vũ, hay những con vật tượng trưng.

Ngự đạo với lễ phục lộng lẫy vẽ nên một dải đỏ, xanh, vàng rực rỡ dưới ánh nắng mai.

Các nhạc công, lính cầm đèn lồng (lantermes), gươm, cờ tiết, người thổi sáo, lọng vàng, cán đỏ….

Tiếp đến sáu con ngựa kéo chiếc Long đình xa của vua Bảo Đại[1] phủ rợp những phiến thêu rồng mây, chữ Phúc, Thọ. Nhiều người khiêng trên tay một chiếc long đình đặt lễ phục của vua cùng với hương án, ghế ngai… Tất cả các thứ ấy lắc lư dưới bóng những chiếc lọng lớn màu da cam.

Hai cỗ mã ngự khoác gấm vàng. Chiếc xe kéo (rickshaw) thếp vàng của Nhà vua. Cuối cùng, nhấp nhô trên làn sóng đỏ của lính loan giá, chiếc Long liễn (litière impériale) của nhà vua được che bọc bởi những chiếc đại phiến (quạt lớn) và tàn lọng. Ngồi sau lớp kính trong, nhà vua mặc hoàng bào, thanh thản tiếp nhận sự tôn kính của thần dân đang chen chúc dài theo ngự đạo trong suốt cái ngày đại lễ ba năm mới có một lần ở cái xứ châu Á cổ xưa này.

Ngự đạo được khép lại sau đoàn các Hoàng thân Tôn tước và các Đại thần ngồi trên xe kéo. Phẩm phục các vị mặc màu đỏ, tía, tím, xanh, hoa cà (mauve) giống như một dấu dẫn nhịp (point d’orgue) trong luồng nhạc quang sinh động.

Mỗi khi ngự đạo đi qua, đám đông lại kéo theo trong yên lặng, đông đảo, tự hào về nhà vua trẻ, hiện đại hơn cả các vị Hoàng đế ở Á châu khác.

Con đường lớn dẫn đến Giao đàn – nơi ngự đạo sẽ hướng vào Trai Cung (Palais du Jeune) – là một con đường dài lộng lẫy: hương án nối tiếp hương án, cờ xí giăng hàng, với những khung kết bằng rơm và lá hoa đá. Trong cùng, một cái án chân quỳ bằng kim lọai sơn son thếp vàng hay bằng gỗ khảm xa-cừ, trên đặt một tấm kính mang bức chân dung nhà vua, trông thật tôn nghiêm.

Lễ Nam-Giao năm 1942 – Gia đình Hoàng đế đang chờ đón đoàn rước gần cổng phía tây của đàn Nam-Giao.

Phía trước, những bát nhang, những chân đèn đồng, những con hạc mang tính tượng trưng. Các chi tiết trưng bày đều khác nhau nhưng lại rất thống nhất trong cùng một tổng thể. Ban đêm, lính canh phòng ngồi xổm trên chiếu. Quyền môn đối diện với lối vào ở Vòng thành thứ tư, hai con rồng bằng giấy các-tông vẽ đôi mắt dữ dằn như đe dọa mọi người trong lúc chòm râu cằm của chúng làm bằng giấy thì lại phơ phất trước làn gió nhẹ.

Trên tầng đàn thứ hai – tầng của Đất, đặt tám cái bàn thờ các vị thần thuộc về vũ trụ, những mãnh lực tự nhiên: Mưa, Gió, Sấm, Núi, Sông, Biển.v.v. Ở mặt nam xếp hai hàng lọng: lọng màu xanh để tôn vinh Trời, lọng màu vàng để tôn vinh Đất, giới hạn bởi hương án bên ngoài hay Nhà vàng (Hoàng ốc). Chiếu trải thảm con đường vua đi từ Trai Cung đến Giao đàn. Ở mỗi bên vệ đường thiêng liêng ấy, trên tầng ba, sắp đặt các nhạc cụ cổ xưa lạ lẫm.

Những chiếc lồng đèn giấy ngũ sắc vàng, xanh, tím, đỏ, trắng mắc trên vòng tường thành, chỉ lối đi dưới rặng thông, vạch thành một con đường thẳng rồi bẻ vuông góc dẫn lên tầng ba.

Một tấm vải bạt (tente) rộng lớn căng trên tầng tròn – tầng dành để thờ Trời. Trong cùng bàn thờ Trời – màu xanh, và bàn thờ Đất – màu vàng. Mỗi bên đông tây có sáu án thờ đặt đối nhau thờ thần vị tổ tiên Hoàng tộc: Chúa Nguyễn Hoàng đối với vua Gia Long, vua Minh Mạng đối với vua Thiệu Trị, vua Tự Đức đối với vua Đồng Khánh… Kế đến có hai cái bàn dài bày la liệt tế phẩm: những tráp đựng vải lụa, bình đựng rượu, cốc uống rượu (coupes). Cũng ở tầng này, có một cái tợ (bàn thấp) đặt các con sinh (con vật để hiến tế).

Ở đấy, trong cái huyền diệu của đêm, cuộc lễ linh thiêng sẽ được cử hành. Thánh thần được triệu thỉnh bằng những lời khấn vái, những khúc ca, những điệu múa nhảy, những khói hương, mùi thơm của thịt hui. Họ sẽ theo con đường dành riêng để về nhận lễ phẩm và thăm viếng thần dân thông qua bản thân vị Thiên tử.

Rất tiếc, tôi chỉ có thể dự cuộc tổng duyệt diễn ra vào buổi chiều. Ánh sáng ban ngày rực rỡ. Các tầng đàn nắng chói chang. Phẩm phục của các quan bằng gấm lụa sang trọng, thêu hoa, thẳng thớm, óng ánh. Những chiếc mão nạm cườm ngọc lóng lánh. Những hình thú vật tượng trưng và những chòm sao kết trên áo quần các đại thần tạo thành một nét tương phản thú vị với đám đông dân chúng dung dị đang chen lấn chung quanh.

Nhà vua ngồi trong ngự liễn cửa kính nhìn ra thần dân hai bên đường

Ở bậc cấp dẫn lên Đàn tròn, một vị quan cao cấp với vẻ mặt nghiêm nghị thong thả bước xuống. Chiếc áo rộng của ông lộng lẫy (splendide); thân trong áo màu da cam thêu xanh lục, xanh lơ và màu cổ đồng. Đai mang ngang lưng màu đỏ, bố tử (ailette) xanh lá mạ và mũ cánh chuồn. Cái bóng người chói nắng ấy, trông có vẻ thản nhiên, như đó là một cách đáp lại sự chờ đợi dài lâu của thần dân trong bầu không khí nóng bức.

Tôi nhắm mắt lại, cố quên đi trong chốc lát những gì đang diễn ra chung quanh, để giữ lại trong tâm trí mình cái hình ảnh bảy sắc cầu vồng ấy. Nó thể hiện một nền văn minh lớn với hàng thế kỷ lịch sử – nền văn minh đã bị cái gọi là sự tân tiến (progrès moderne) đẩy vào chỗ lãng quên. Phục hồi lại nền văn minh ấy, ta thử khám ra một thể chế hợp nhất sự an lạc quân bình giữa nền Khổng học hiền triết cổ điển với nền văn hóa Thiên Chúa giáo.

Thế rồi trống nổi lên. Các quan xếp hàng phía trước án thờ Nhà vàng. Và, ở mỗi bên các nhạc công đứng vào vị trí. Quan thông tán (héraut) cáo bằng một thứ giọng mũi các lễ lạt khác nhau trong chương trình đại lễ. Nhạc trỗi. Lục lạc rung, chuông đồng ngân, thùng gỗ hình tháp, đàn đá cẩm thạch, sênh tiền, trống lớn đặt trên cái giá một chân, và chụp lên trên một con chim huyền thọai để ngăn chặn điềm xấu, đàn tỳ-bà… Âm nhạc thật lạ lùng, chẳng có một chút gì có thể thích hợp với lỗ tai của người Tây phương, nhưng nó lại ăn nhịp với toàn cuộc lễ, tạo lại được cái không khí nguyên ủy của các thời đại xưa.

Đứng phía sau dàn nhạc cổ ấy là những người thổi sáo với phẩm phục xanh nhạt thêu hoa.

Quan Thông tán lại cáo. Các vũ công xếp thành hàng. Họ mặc áo tay chẽn và đội mũ như hình lưỡi cuốc (lame de houe), tay phải cầm cái kích (petite hache) bằng gỗ cán dài sơn son, tay trái cầm cái khiên (bouclier) sơn đỏ hay vàng. Cuộc múa lễ bắt đầu với khúc ca Mỹ thành chi chương (Chant de l’ Exquis):

“Tam sinh lễ đủ/ Chuông trống vang lừng/ Rượu thơm mới ủ/ Chén ngọc kính dâng/ Rót chén rượu ngọt/ Thơm tho ngát mùi/ Củi đốt ngùn ngụt/ Ngọc dâng khoan thai/ Khí thiêng cao thẳm/ Lồng lộng huy hoàng/ Cao cung tả hữu/ Ẩn hiện linh quang/ Thần về yên vị/ Hưởng lễ chứng thành/ Nơi nơi hòa khí/ Ban xuống khang ninh/Rộng cho hưởng phúc/ Ân huệ đời đời/ Giúp nên mọi việc/ Thịnh vượng lâu dài.”

Các vũ công đứng trên một chân, đưa một chân lên và lặp lại nhiều lần bước đi đơn giản ấy, hình như có tính tượng trưng.

Rồi tiết mục múa thứ hai với khúc ca Thụy Thành Chi Chương (Chant de l’Heureux Augure):

“Giáng lâm lẫm liệt/Nhận thấy tỏ tường/ Phụng thờ tôn kính/ Gìn giữ nghiêm trang/ Đức sáng rực rỡ/ Rượu dâng tuần hai/ Ngọc lụa tốt đẹp/ Mâm chén nơi nơi/ Ngạt ngào hương tỏa/ Dâng lên khẩn cầu/ Kính xin bầy tỏ/ Quỳ trên nệm tâu/ Gươm thiêng sáng lóang/ Gió lành quanh ta/ Lặng lẽ hâm hưởng/ Soi xét không xa/ Tấc thành mong thấu/ Ban xuống ân sâu/ Nối noi mãi mãi/ Cháu chắt lâu dài”.

Trong lúc đó lễ tái hiến hoàn tất. Các vũ công cung đình cầm cái sáo gỗ sơn son và chiếc gậy phép (sceptre).

Lễ tế Nam Giao năm 1942

Tiết mục thứ ba với khúc ca Vĩnh thành chi chương (Chant de la Perpétuité):

“Hương hương nghi ngút/ Cao thẳm khôn lường/Tỏ lòng thành kính/ Tôn nghiêm mọi đường/ Tuần ba dâng rượu/ Hâm hưởng nơi đây/ Lễ văn thứ tự/ Nghi thức đặt bầy/ Sáu lần vừa trọn/ Theo khúc Cửu thành/ Thoạt vào sửa lễ/ Đã thấy anh linh/ Tôn kính bao xiết/ Xin giúp cho ta/ Lên xuống quanh quất/ Uy sáng tỏ ra/ Giúp lên phúc lớn/ Ngôi vua vững bền/ Đầy đủ yên ổn/ Năm năm tiến lên”.

Lễ tái hiến kết thúc. Các quan lui ra, trở lại với con người bình thường, đi lẫn vào đám đông dân chúng đang giải tán. Thoáng chốc một làn gió thổi qua trên cao. Một vị đại thần trong số quan ấy băng qua tầng đàn thứ ba với hai phù lễ đi theo hai bên. Vận chiếc áo lụa màu xám-xanh thật sang trọng, ông ta dấn bước (onduler) trên đôi hia dạ đen, đế trắng, mũi cao cong ngược lên. Một anh thợ ảnh tay hờm sẵn máy và hướng ống kính về phía ông.

Vị đại thần liền dừng bước, chỉnh lại cho thẳng nếp chiếc áo rộng và chiếc quần chùng, sửa lại cho ngay ngắn chuỗi ngọc trên mão, lấy lại phong thái đạo mạo, đường bệ để chỉ trong phút chốc có cảm tưởng như ông lặng vào một thế giới khác – thế giới của tượng đồng, tượng đá thức tỉnh mơ màng trong các ngôi chùa Phật.

Tôi lê gót trên các tầng đàn lẻ loi giữa rặng thông xanh. Rặng thông bảo vệ cho các tầng đàn chống lại sự xô bồ của đời sống vật chất tầm thường, giữ lại cái hồn thiêng để rồi cứ ba năm lại được làm sống lại một lần qua ngày Lễ tế Trời và Đất (tế Nam Giao).

Tôi có hiểu biết chút ít về nghi lễ nhưng tôi cũng muốn có một ấn tượng khái quát về buổi lễ. Nhưng tiếc thay, cuộc lễ chính thức lại diễn ra trong đêm và bị cấm nghiêm, ngăn cách mọi con mắt của người ngoài.

Đêm, trăng lên soi giữa bầu trời hâm hấp (tiède) và quang đãng. Ánh trăng dịu dàng mờ mờ ảo ảo phủ lên con người và vạn vật.

Ánh sáng ngũ sắc tỏa ra từ những chiếc đèn lồng. Những tầng đàn phản chiếu loang loáng lên không trung. Những ngọn đuốc lớn ở bốn góc đàn, mùi trầm hương, bất chợt một ngọn lửa lò bùng lên, nổ lốp bốp – nơi đang hui con trâu tế: Một hình ảnh trông thật bi hùng (dantesque).

Làn khói hồng bay lên ngọn thông một cách thoải mái. Trong khi đó những người phụ việc ném củi vào cái lò lớn xây bằng vôi vữa ở góc tây nam tầng thứ ba.

Sự sống và cái chết, hiện thực và huyền bí, mê tín và đức tin (foi), vĩ đại và nhỏ nhen (petitesse)… tất cả đều tụ lại trong cái đêm thần thánh này.

Những nghi lễ thiêng liêng cứ tuần tự diễn ra, không chỉ mang lại cho những thế kỷ cách tân mà còn làm sáng lên chính những khát vọng nhân bản (aspirations humaines) của con người: Nhu cầu thần linh.

Những lăng mộ trên cánh đồng khơi gợi đến sự chết cũng đang ở giữa đám đông người sống kia. Sự khơi gợi thường xuyên – nhiều không kể xiết – trong cái tịch mặc (recueillememt) của tự nhiên. Con người luôn tha thiết được hòa nhập vào nhịp điệu sâu thẳm của cuộc sống vĩnh hằng, nên tha thiết trong đêm tế lễ này – cái đêm tất cả đã trở thành biểu tượng mà thần linh đang hiển hiện ở đằng kia.

Chung quanh bên ngoài vòng thành, nhiều nhóm người Việt dựng lều gần bếp lửa với ấm chè xanh. Có hàng trăm người ở đó, thức suốt đêm để chờ xem một cảnh tượng gì đó của buổi lễ nhưng ắt hẳn họ không thấy.

Trong ánh đuốc, Nhà vua về Trai Cung, các quan Thông tán đi trước rồi các quan, và đám lính cầm cờ đuôi nheo theo sau. Tôi không trông rõ được dung nhan Nhà vua ngồi trong chiếc Long liễn tối om.

Lễ tế Nam Giao năm 1942

Đạo ngự đi dọc theo con đường treo đèn lồng, băng qua tiền đàn, đến tầng đàn thứ ba ở mặt nam. Từ một nơi xa xa, tôi thấy hàng đuốc chập chờn: Một đám rước cảm động (émouvante procession).

Bỗng chốc lời ca tiếng nhạc cất lên, vang xa, trong lúc lửa ở lò đốt (buché) lễ vật cứ cháy một cách mãnh liệt, củi nổ lốp đốp, than hồng tung tóe.

Cuộc lễ tế Nam Giao hoàn tất. Nhà vua ở lại Trai Cung trong một vài giờ rồi đến 6h30, Đạo ngự hoa lệ (fastueux cortège) lên đường về.

Lễ tế Nam Giao năm 1942

Tôi đứng trước Kỳ đài chờ Nhà vua hồi cung. Cảnh quang ở đây cũng thật nên thơ. Những lá cờ đuôi nheo bay phấp phới trên cột cờ. Con sông hài hòa với những sườn đồi trùng điệp trước mặt. Ở phía sau, cửa Ngọ Môn, Đức vua sẽ qua đó để vào Hoàng cung. Những mái ngói đỏ giữa màu xanh của cây và hoa; những bãi cỏ lặng lẽ thiếu vắng bóng người. Các vọng lâu (Miradors) chia phòng thành Huế ra nhiều đoạn, ở dưới chân phòng thành là thành hào (douve). Trên mặt nước ngủ yên, những chiếc lá sen nằm nghỉ, vẫn còn đọng hạt sương đêm.

Ngự đạo tiến về gần với thứ tự như lúc đi. Các chú voi sánh đôi ở hai bên tiền đình rồi đến ngự mã. Chiếc Long liễn đi qua giữa những cái đầu cúi thấp. Rồi cánh cửa của chiếc cổng lợp ngói ống đóng lại trên Tử Cấm Thành.

Viết một bình luận